Tro giống như lớp tuyết xám mềm mại.
Cậu chạy trên thảm lá kim khô và lá nâu, lao tới bìa rừng nơi những cây thông mọc thưa thớt. Bên ngoài khoảnh đất trống kia cậu nhìn thấy những đống đá sừng sững trơ trọi trong ngọn lửa cháy phừng phừng. Cơn gió thổi đến nóng rực, sực mùi máu và thịt nướng, mùi hương ấy khiến cậu bắt đầu chảy nước miếng.
Nhưng trong khi một mùi lôi cuốn họ đến gần thì các mùi khác đều khiến họ lùi lại. Cậu ngửi mùi khói đang bay đến. Có người, rất nhiều người, rất nhiều ngựa, và lửa, lửa ở khắp nơi. Không có mùi gì nguy hiểm hơn thế, dù là mùi lạnh lẽo và dữ dội của sắt, móng vuốt của con người và da cứng. Khói lẫn tro bụi làm mắt cậu mờ đi, cậu lờ mờ nhìn thấy trên trời có một con rắn mọc cánh lớn thét ra dòng sông lửa. Cậu nhe nanh, nhưng con rắn biến mất. Phía sau các vách đá, những ngọn lửa cao liếʍ lên tận các vì sao.
Lửa cháy lách tách suốt đêm, lại một tiếng gầm nữa cất lên và tiếng đổ vỡ ầm ầm làm mặt đất như nảy lên dưới chân cậu. Chó sủa ầm ĩ, và lũ ngựa hí lên hoảng sợ. Những tiếng tru rền rĩ suốt đêm, tiếng tru của loài người, tiếng rên xiết vì sợ hãi, tiếng thét man dại, tiếng cười, và tiếng la hét. Chẳng có loài thú nào ồn ào như con người. Cậu vểnh tai lên nghe ngóng, em trai cậu gầm gừ mỗi khi có tiếng động. Họ rình mò dưới những gốc cây, gió thổi tro và những bụi than hồng bay tít lên trời. Lúc này ngọn lửa đã gần tàn rồi tắt hẳn. Sáng hôm đó, mặt trời lên trong không gian xám xịt và mù mịt khói.
Đến lúc này cậu mới rời khỏi các gốc cây và di chuyển chậm rãi trên bãi đất trống. Em cậu đang đi cạnh cậu vì cũng bị thu hút bởi mùi máu và chết chóc. Họ khẽ khàng bước qua những cái hang mà con người xây từ gỗ, cỏ và bùn. Rất nhiều hang như vậy bị cháy và bị sập. Một số vẫn còn nguyên. Nhưng họ không nhìn hay đánh hơi thấy một người sống nào. Lũ quạ đang bâu kín các thi thể bỗng cất cánh bay vυ"t vào không trung và kêu lên quang quác khi anh em cậu đến gần. Bọn chó hoang cũng lẩn đi mất khi thấy họ.
Bên dưới những vách đá xám vĩ đại, một con ngựa hấp hối đang rêи ɾỉ; nó gắng gượng đứng dậy trên cái chân bị gãy và hí lên đau đớn khi ngã khuỵu. Em cậu lượn vòng quanh con ngựa rồi xé toạc cổ họng nó, trong khi con ngựa chỉ có thể tung vó yếu ớt và trợn trừng mắt. Khi cậu đến gần cái xác, em cậu đớp cậu và cụp tai xuống, còn cậu bạt tai sói em bằng chân trước và cắn chân cậu ta. Họ đánh nhau giữa bãi cỏ, giữa bùn đất và đống tro tàn bên cạnh con ngựa chết, cho tới khi em cậu nằm ngửa và cụp đuôi xin hàng. Cậu đớp thêm một nhát vào bên cổ đang ngửa lên của em trai cậu; sau đó cậu ăn trước, em cậu ăn sau trong khi cậu liếʍ những vết máu khỏi bộ lông đen của mình.
Lúc này bóng tối bắt đầu bao trùm lên cậu, giống như một ngôi nhà đầy những tiếng thì thầm và tất cả mọi người đều sống trong tăm tối. Cậu cảm thấy những ngón tay lạnh lẽo đang chạm vào mình. Cậu cố chống lại nó. Cậu không thích bóng tối. Cậu là sói. Cậu là thợ săn, là kẻ rình mồi và tàn sát, cậu thuộc về các anh chị em của mình trong những cánh rừng sâu, nơi cậu được tự do chạy nhảy dưới bầu trời đầy sao. Cậu ngồi trên hai chân sau, ngẩng đầu lên và cất tiếng tru. Ta sẽ không đi, cậu rít lên. Ta là sói, ta không đi. Mặc dù vậy, bóng tối càng lúc càng dầy đặc và phủ lên đôi mắt cậu, tràn vào mũi cậu và bịt kín tai cậu, cậu không còn quan sát, đánh hơi, nghe ngóng hay chạy nhảy được nữa, các vách đá xám biến mất cùng với xác ngựa và người anh em của cậu, tất cả chỉ còn lại một màu đen im ắng, lạnh giá, và chết chóc, đặc một màu đen...
“Bran,” một giọng nói nhỏ nhẹ thì thầm. “Bran, dậy đi. Dậy đi nào, Bran. Bran...”
Cậu nhắm con mắt thứ ba lại và mở hai con mắt kia ra, hai con mắt quen thuộc, hai con mắt mù lòa. Ở nơi tối tăm đó, tất cả mọi người đều mù như vậy cả. Nhưng có ai đó đang giữ cậu lại. Cậu cảm nhận được có đôi tay vòng quanh mình, hơi ấm của một cơ thể khác ở ngay bên cạnh. Cậu nghe thấy tiếng Hodor khẽ hát “Hodor, hodor, hodor” một mình.
“Bran?” Đó là giọng của Meera. “Ngài lăn lộn và hét lên nghe rất đáng sợ. Ngài đã thấy gì vậy?”
“Winterfell.” Cậu cảm giác lưỡi mình dày lên rất lạ. Có lẽ một ngày nào đó khi trở về ta sẽ không thể nói được nữa. “Đó là Winterfell. Tòa lâu đài chìm trong biển lửa. Có mùi ngựa, thép, và máu. Chúng gϊếŧ tất cả mọi người rồi, Meera ạ.”
Cậu cảm nhận được bàn tay cô gái đặt lên mặt cậu, vuốt tóc cậu ra sau. “Ngài ướt đầm mồ hôi rồi,” cô nói. “Ngài có cần uống nước không?”
“Có,” cậu gật đầu. Cô nâng cái bầu da lên môi cậu, Bran uống nhanh đến mức làm nước tràn ra nơi khóe miệng. Khi trở về từ giấc mơ, cậu luôn thấy khát nước và yếu ớt. Cả đói nữa. Cậu nhớ lại cảnh con ngựa hấp hối và vị máu của nó trong miệng, mùi thịt cháy trong không gian buổi sáng. “Bao lâu rồi?”
“Ba ngày,” Jojen nói. Cậu ta bước tới rất nhẹ nhàng, hoặc có thể cậu vẫn luôn ở đó; trong cái thế giới mù lòa toàn một màu đen này, Bran không thể đoán được điều gì. “Chúng tôi rất lo cho cậu.”
“Ta đã ở cùng Mùa Hè,” Bran nói.
“Quá lâu. Ngài sẽ chết đói mất. Meera đã nhỏ một chút nước vào họng ngài, và chúng tôi bôi mật ong vào miệng ngài, nhưng như vậy không đủ.”
“Ta ăn rồi,” Bran nói. “Chúng ta hạ được một con nai và đuổi cổ một con mèo rừng khi nó cố ăn cắp thức ăn của chúng ta.” Con mèo màu nâu vàng chỉ to bằng nửa con sói nhưng rất dữ dằn. Cậu vẫn nhớ mùi xạ toát ra từ nó và hình ảnh con mèo chễm chệ trên cành cây sồi gầm gừ nhìn xuống bọn họ.
“Con sói đã ăn,” Jojen nói, “còn ngài thì chưa. Hãy tự chăm sóc bản thân, Bran. Hãy nhớ ngài là ai.”
Cậu nhớ rất rõ mình là ai; là cậu nhóc Bran; Bran tật nguyền. Ta thà làm một con thú còn hơn. Thảo nào cậu luôn mong được trở thành Mùa Hè trong mơ, những giấc mơ sói. Ở đây giữa bóng tối ẩm ướt lạnh lẽo của căn hầm mộ, con mắt thứ ba của cậu cuối cùng đã mở ra. Cậu có thể gặp Mùa Hè bất cứ khi nào cậu muốn, và có một lần cậu thậm chí còn chạm được vào Bóng Ma và nói chuyện với Jon. Tuy nhiên có lẽ đó chỉ là một giấc mơ đơn thuần. Cậu không hiểu sao Jojen luôn muốn lôi cậu lại. Bran chống tay gượng ngồi dậy. “Ta phải kể cho Osha nghe những gì ta thấy. Cô ta có ở đây không? Cô ta đi đâu rồi?”
Người phụ nữ du mục cất tiếng trả lời. “Tôi không đi đâu cả, thưa lãnh chúa. Tôi đã mò mẫm đủ trong bóng đêm rồi.” Cậu nghe thấy tiếng giày nện xuống đá và quay đầu về phía tiếng động, nhưng không nhìn thấy gì cả. Bran nghĩ mình ngửi được mùi của cô ta, nhưng cậu không dám chắc. Tất cả bọn họ đều có mùi tanh tưởi như nhau, và cậu không có cái mũi của Mùa Hè để phân biệt người này với người khác. “Tối qua tôi đã đi tiểu lên chân một ông vua,” Osha tiếp tục. “Có thể là sáng nay, chẳng biết nữa. Lúc đó tôi đang ngủ nhưng giờ thì không.” Không chỉ mình Bran mà tất cả bọn họ đều ngủ rất nhiều. Họ đâu còn việc gì khác để làm? Ngủ, ăn, rồi lại ngủ, thỉnh thoảng có nói chuyện một chút... nhưng không nhiều, và để an toàn họ phải nói thì thầm. Osha sẽ thích hơn nếu họ không bao giờ nói chuyện, nhưng chẳng có cách nào giữ cho Rickon trật tự, hay khiến Hodor ngừng lẩm bẩm “Hodor, hodor, hodor” một mình.
“Osha,” Bran nói, “ta thấy Winterfell đang cháy.” Phía bên trái, cậu nghe thấy tiếng thở nhẹ nhàng của Rickon.
“Một giấc mơ,” Osha nói.
“Một giấc mơ sói,” Bran trả lời. “Ta ngửi được nữa. Không có mùi nào giống mùi máu và mùi lửa cháy.”
“Máu ai?”
“Của người, ngựa, chó, tất cả. Chúng ta phải đi xem.”
“Bộ xương gầy còm này là tất cả những gì tôi có,” Osha nói. “Tên hoàng tử mực đó mà bắt được tôi thì chúng sẽ dùng roi lột da tôi mất.”
Bàn tay Meera lần tìm tay Bran trong bóng tối và siết nhẹ. “Tôi sẽ đi nếu ngài sợ.”
Bran nghe thấy tiếng các ngón tay lần vào chiếc bao da, sau đó là tiếng thép mài trên đá lửa. Lại một lần nữa. Một tia lửa lóe lên, Osha thổi nhẹ. Vạt lửa dài màu xanh xám vươn dài như một cô gái đang đứng kiễng chân. Khuôn mặt Osha mờ ảo bên trên ngọn lửa. Cô ta châm một cây đuốc vào đó. Bran phải nheo mắt khi cây đuốc bùng cháy, và cả không gian ngập tràn trong ánh sáng màu cam. Ánh sáng đánh thức Rickon, cậu bé ngồi dậy và ngáp.
Khi những cái bóng di chuyển, trong khoảnh khắc dường như những người chết cũng đang đứng dậy. Lyanna và Brandon, Lãnh chúa Rickard Stark cha bọn họ, Lãnh chúa Edwyle ông nội họ, Lãnh chúa Willam và em trai Artos Cứng Rắn, Lãnh chúa Donnor, Lãnh chúa Beron, Lãnh chúa Rodwell, Lãnh chúa Jonnel một mắt, các Lãnh chúa Barth, Brandon và Cregan, những người từng đánh nhau với Hiệp Sĩ Rồng. Họ ngồi trên ghế đá với một con sói đá dưới chân. Đây là nơi họ đến khi hơi ấm rời khỏi thân thể họ; đây là căn hầm tối tăm của người chết, nơi người sống không bao giờ dám bước chân vào.
Và ở cửa nấm mồ trống đang chờ đợi Lãnh chúa Eddard Stark, bên dưới bức chân dung oai vệ bằng đá hoa cương của ông, sáu kẻ tị nạn đang xúm lại quanh đống đồ ăn gồm bánh mỳ, nước và thịt khô. “Chỉ còn lại một ít,” Osha lẩm bẩm khi nhìn xuống kho dự trữ của họ. “Tôi sẽ phải lên đó để lấy trộm đồ ăn, nếu không chúng ta sẽ phải ăn thịt Hodor mất.”
“Hodor,” Hodor nói và cười nhăn nhở.
“Trên đó là ngày hay đêm nhỉ?” Osha tư lự. “Tôi đã mất hết khái niệm về thời gian rồi.”
“Là ban ngày,” Bran trả lời, “nhưng tất cả đều tối tăm vì khói.”
“Ngài chắc chứ?”
Chẳng cần phải di chuyển tấm thân tật nguyền nhưng cậu vẫn ra được ngoài đó như thường, và trong khoảnh khắc, cậu nhìn thấy hai hình ảnh. Osha đứng đó cầm đuốc, bên cạnh là Meera, Jojen và Hodor. Hai hàng cột đá hoa cương cao phía sau và hàng loạt các lãnh chúa xa xưa quá cố trải dài trong bóng tối... và kia là Winterfell xám xịt trong làn khói, cánh cổng đồ sộ xiêu vẹo bằng sắt và gỗ sồi đầy những vết chém, cây cầu kéo hạ xuống trong một đống dây xích đứt và sàn cầu mất ván. Xác người nổi trên hào giống như hòn đảo cho lũ quạ.
“Chắc chắn,” cậu tuyên bố.
Osha ngẫm nghĩ một lúc. “Tôi sẽ liều đi quan sát xem sao. Tôi muốn mọi người đi sát phía sau. Meera, đem chiếc giỏ của Bran ra đây.”
“Chúng ta sẽ về nhà à?” Rickon phấn khởi. “Em muốn con ngựa của em. Em muốn bánh táo, bơ, mật ong, và Lông Xù nữa. Chúng ta sẽ đến chỗ Lông Xù à?”
“Đúng vậy,” Bran hứa, “nhưng em phải im lặng.”
Meera đeo cái giỏ đan bằng cây liễu gai vào lưng Hodor và nhấc Bran lên đặt vào đó, nhẹ nhàng đưa đôi chân bất động của cậu qua các lỗ. Cậu thấy có một chút xốn xang trong dạ. Bran biết điều gì đang chờ đợi họ trên mặt đất, nhưng điều đó không giúp mọi việc bớt đáng sợ hơn. Khi họ bắt đầu đi, cậu quay lại nhìn cha mình lần cuối, và dường như Bran thấy nỗi buồn hiện lên trong đôi mắt Lãnh chúa Eddard, như thể ông không muốn họ đi. Chúng con phải đi thôi, cậu nghĩ. Đến lúc rồi.
Osha một tay cầm cây giáo bằng gỗ sồi, tay kia cầm bó đuốc, sau lưng đeo một thanh kiếm tuốt trần, một trong những thanh kiếm cuối cùng có dấu ấn của Mikken. Ông ấy đã rèn nó cho ngôi mộ của Lãnh chúa Eddard, để giữ cho linh hồn vị lãnh chúa được an nghỉ. Nhưng khi Mikken đã bị gϊếŧ và lũ dân đảo Iron canh gác kho vũ khí thì một thanh kiếm tốt có sức hấp dẫn không thể chối từ, ngay cả khi đó là đồ ăn cắp trong hầm mộ. Meera đem theo thanh kiếm của Lãnh chúa Rickard nhưng cằn nhằn vì nó quá nặng. Brandon cầm kiếm của một người cùng tên với mình, thanh kiếm được làm cho người chú mà cậu chưa từng biết mặt. Bran biết cậu sẽ không làm được gì nhiều nếu phải đánh nhau, nhưng dù sao một thanh kiếm trong tay vẫn khiến cậu yên tâm hơn.
Nhưng Bran biết đó chỉ là một trò chơi.
Tiếng bước chân của họ vang vọng khắp khu hầm mộ chằng chịt lối rẽ. Bóng tối đen kịt phía sau nuốt chửng lấy cha cậu trong khi bức màn bóng đêm phía trước được vén lên, những bức tượng khác hiện ra; giờ thì không chỉ có các lãnh chúa, mà còn có các vị vua cổ xưa của phương bắc. Trên trán họ là những chiếc vương miện bằng đá. Torrhen Stark, Vị Vua Quỳ Gối. Edwyn Vua Mùa Xuân. Theon Stark, Sói Đói. Brandon Thiêu Trụi và Brandon Thợ Đóng Thuyền. Jorah và Jonos, Brandon Xấu Xa, Walton Vua Mặt Trăng, Edderio Chú Rể, Eyron, Benjen Ngọt Ngào và Benjen Cay Đắng, Vua Edrick Râu Tuyết. Khuôn mặt họ nghiêm nghị và rắn rỏi, có vài người đã làm những việc tồi tệ, nhưng họ đều là người Nhà Stark, và Bran biết tất cả các câu chuyện về họ. Cậu chưa bao giờ sợ những lăng mộ; chúng là một phần của ngôi nhà, cũng như một phần của con người cậu, và Bran biết một ngày nào đó cậu cũng sẽ nằm ở đây.
Nhưng giờ cậu không chắc chắn như vậy nữa. Nếu lên trên đó, liệu ta có bao giờ trở lại nơi đây? Rồi ta sẽ đi đâu khi chết?
“Đợi đã,” Osha nói khi họ đến những bậc thang xoắn ốc dẫn lên mặt đất cũng như dẫn xuống các tầng dưới sâu, nơi các vị vua lâu đời hơn đang ngồi trên những chiếc ngai trong bóng tối. Cô ta đưa cây đuốc cho Meera. “Tôi sẽ dò đường lên.” Ban đầu họ nghe thấy tiếng bước chân của Osha, nhưng âm thanh cứ nhỏ dần, nhỏ dần rồi tắt hẳn.
“Hodor,” Hodor có vẻ lo lắng.
Bran đã tự nhủ hàng trăm lần rằng cậu ghét phải trốn trong bóng tối dưới này, cậu muốn lại được thấy mặt trời, được cưỡi ngựa đi trong gió và mưa. Nhưng giờ khi đối mặt với thời khắc đó, cậu lại thấy sợ hãi. Cậu cảm thấy an toàn trong bóng tối, nơi cậu không thể nhìn thấy tay mình dù ở ngay trước mắt, và cậu tin rằng kẻ thù cũng sẽ không tìm thấy cậu. Các lãnh chúa bằng đá còn cho cậu sự dũng cảm. Tuy không nhìn thấy họ nhưng cậu biết họ ở đó.
Họ đã đợi một lúc lâu mà không thấy tiếng động gì. Bran bắt đầu lo lắng, sợ điều chẳng lành xảy đến với Osha. Em trai cậu không ngừng ngọ nguậy. “Em muốn về nhà!” cậu bé nói to.
Hodor gật gật đầu nói. “Hodor.”
Rồi họ nghe thấy tiếng bước chân mỗi lúc một to hơn, và vài phút sau Osha xuất hiện trong ánh sáng với vẻ buồn rầu. “Có cái gì đó chặn cửa. Tôi không di chuyển nó được.”
“Hodor có thể di chuyển được mọi thứ,” Bran nói.
Osha nhìn chàng trai chăn ngựa và suy xét. “Cũng có thể. Chúng ta đi thôi.”
Vì các bậc thang hẹp nên họ phải đi theo hàng một. Osha dẫn đầu. Theo sau là Hodor với Bran cúi thấp sau lưng để đầu không chạm trần nhà. Meera cầm đuốc đi tiếp theo, và Jojen đi sau cùng, tay dắt Rickon. Họ đi lên mãi, lên mãi theo đường xoắn ốc. Bran nghĩ cậu ngửi thấy mùi khói, nhưng có lẽ đó chỉ là khói từ ngọn đuốc.
Cánh cửa hầm mộ làm bằng gỗ cứng. Nó cũ kỹ nặng nề, và nằm nghiêng so với nền nhà. Lối đi chỉ có thể đi qua từng người một. Khi tới nơi, Osha cố thử một lần nữa nhưng cánh cửa không hề nhúc nhích. “Để Hodor thử xem sao.”
Họ phải giúp Bran ra khỏi chiếc giỏ trước để cậu không bị đè bẹp. Meera ngồi xổm cạnh cậu trên bậc thang và khoác một tay qua vai cậu che chở, Osha và Hodor đổi chỗ cho nhau. “Mở cửa ra nào, Hodor,” Bran nói.
Chàng trai chăn ngựa to lớn chống cả hai tay lên cánh cửa, vừa đẩy vừa lẩm bẩm. “Hodor?” Anh ta đấm vào cánh cửa gỗ nhưng nó thậm chí không chuyển động. “Hodor.”
“Dùng lưng ấy,” Bran giục. “Và chân nữa.”
Hodor quay người lại, đặt lưng vào tấm cửa gỗ và huých mạnh. Hai lần. Ba lần. “Hodor!” Anh ta đặt một chân lên một bậc thang cao hơn để gập người bên dưới cánh cửa nằm nghiêng và cố nâng nó. Lần này cánh cửa kêu cọt kẹt. “Hodor!” Anh ta bước nốt chân còn lại lên một bậc thang nữa và giang hai chân ra, gồng người đứng thẳng lên. Mặt anh ta đỏ bừng, và Bran thấy gân cổ Hodor nổi lên khi người anh căng ra dưới sức nặng của cánh cửa phía trên. “Hodor hodor hodor hodor hodor HODOR!” Một tiếng rầm vang lên trên đầu họ. Rồi đột nhiên cánh cửa hé mở, một vạt ánh sáng hắt vào mặt Bran khiến cậu lóa mắt trong chốc lát. Thêm một cú đẩy nữa, họ nghe thấy tiếng đá dịch chuyển, và con đường được mở ra. Osha thò cây giáo lên trước và chui theo sau, Rickon phải vòng dưới chân Meera để đi theo. Hodor mở hẳn cánh cửa và trèo lên mặt đất. Hai chị em nhà Reed phải khiêng Bran lên mấy bậc thang trên cùng.
Bầu trời phủ một màu xám nhạt và khói cuộn lên xung quanh họ. Họ đứng dưới chiếc bóng của Đại Vọng Lâu, hay đúng hơn là những gì còn sót lại của nó. Cả một bên pháo đài đã đổ sập. Các miệng máng xối bằng đá vỡ tan tành nằm rải rác khắp sân. Chúng rơi ở đúng nơi mình bị ngã, Bran nghĩ khi nhìn thấy chúng. Vài máng xối vỡ tan thành nhiều mảnh khiến Bran không khỏi băn khoăn tại sao cậu có thể sống sót. Gần đó, lũ quạ đang rỉa một xác người chết bẹp dưới một tảng đá rơi, nhưng người đó nằm sấp nên Bran không nhận ra ai.
Đại Vọng Lâu đã không được sử dụng trong suốt mấy trăm năm, nhưng giờ trông nó giống chiếc vỏ rỗng hơn bao giờ hết. Sàn nhà và các thanh xà đều đã cháy rụi. Họ có thể nhìn thấy cả những căn phòng bên trong qua các bức tường đổ sập, thậm chí cả khu vực nhà xí. Nhưng phía sau, ngọn tháp vỡ vẫn đứng đó, đám cháy không tệ hơn lúc trước là bao. Jojen Reed đang ho sặc sụa vì hít phải khói. “Đưa ta về nhà!” Rickon đòi. “Ta muốn về nhà!”
Hodor đi vòng tròn và khẽ lẩm bẩm, “Hodor.” Họ đứng túm tụm vào nhau giữa khung cảnh hoang tàn đổ nát với xác người chết xung quanh.
“Chúng ta làm ồn đủ để đánh thức cả một con rồng dậy,” Osha nói, “thế mà vẫn không có ai đến. Lâu đài đã bị thiêu trụi và chỉ còn sự chết chóc, đúng như giấc mơ của Bran, nhưng tốt nhất chúng ta nên...” Người phụ nữ du mục chợt ngừng nói khi nghe thấy tiếng động phía sau và quay ngoắt lại với cây giáo sẵn sàng trong tay.
Hai cái bóng dài bước ra khỏi tòa tháp đổ và chậm rãi bước qua đống gạch vỡ. Rickon vui vẻ hét lên. “Lông Xù!” và con sói đen nhảy đến chỗ cậu bé. Mùa Hè tiến đến chậm hơn, cọ đầu vào cánh tay Bran và liếʍ mặt cậu.
“Chúng ta nên đi thôi,” Jojen nói. “Nhiều người chết sẽ thu hút những con sói khác ngoài Mùa Hè và Lông Xù, và sẽ không chỉ thu hút những con vật bốn chân đâu.”
“Đúng đấy,” Osha đồng ý, “nhưng chúng ta cần đồ ăn, và có thể ở đây vẫn còn người sống sót. Chúng ta phải đi cùng nhau. Meera, giữ chắc khiên và coi chừng phía sau nhé.”
Họ mất cả buổi sáng để đi hết một vòng quanh lâu đài. Các bức tường đá hoa cương vẫn còn nguyên vẹn, đây đó chỉ có những vết đen do đám cháy để lại. Nhưng ở bên trong, mọi thứ hoang tàn và chết chóc. Cánh cửa dẫn vào Đại Sảnh đầy vết chém và vẫn còn âm ỉ cháy. Bên trong, những thanh xà đã rơi xuống và cả phần mái đổ sập xuống nền nhà. Những tấm kính màu sắc của nhà kính đã vỡ vụn, cây cối, hoa quả bị chém tan tác hoặc bị xới tung chỉ còn trơ rễ. Những gian chuồng ngựa bằng gỗ lợp mái tranh không còn sót lại gì ngoài tro bụi, than hồng, và xác ngựa. Bran nghĩ tới Vũ Công và muốn bật khóc. Bên dưới Tháp Thư Viện, một hồ nước cạn đang bốc hơi, và nước nóng phun ra từ vết nứt bên hồ. Cây cầu nối giữa Tháp Chuông và lùm cây dành cho bầy quạ cũng sập xuống khoảnh sân bên dưới, căn gác của Maester Luwin biến mất. Họ nhìn thấy một quầng sáng màu đỏ lờ mờ đằng sau những ô cửa sổ của căn gác hẹp dưới Đại Vọng Lâu, và ngọn lửa khác đang cháy trong nhà kho.
Osha khẽ gọi qua làn khói đang bốc lên khi họ di chuyển, nhưng không ai trả lời. Họ thấy một con chó đang đứng bên một cái xác, nhưng nó chạy đi mất khi đánh hơi thấy lũ sói tuyết; tất cả những con chó săn còn lại trong cũi đều đã bị gϊếŧ. Đàn quạ của vị học sĩ đang bu quanh vài xác chết, và lũ quạ hoang trên tháp vỡ cũng chọn được những miếng mồi khác xung quanh. Bran nhận ra Poxy Tym, dù anh ta đã bị một cây rìu chém ngang mặt. Một xác người chết cháy đang ngồi bên bàn thờ Đức Mẹ, hai tay anh ta co lại, bàn tay nắm chặt thành nắm đấm đen sì, như thể sẵn sàng đấm bất cứ ai dám đến gần anh ta. “Nếu các vị thần có mắt,” Osha giận dữ gằn giọng, “lũ khốn gây ra những chuyện này sẽ phải trả giá.”
“Đó là Theon,” Bran buồn bã nói.
“Không. Nhìn kìa.” Cô ta chỉ sang phía bên kia sân bằng cây giáo của mình. “Kia là người của hắn. Và kia nữa. Còn đó là ngựa chiến của Greyjoy, thấy chưa? Con ngựa màu đen bị trúng tên ấy.” Người phụ nữ du mục đi giữa những cái xác và cau mày. “Còn đây là Lorren Đen.” Hắn bị thương nặng đến mức bộ râu nhuốm máu chuyển thành màu nâu đỏ. Nhưng hắn cũng hạ được vài tên.” Osha dùng chân lật một cái xác lại. “Ở đây có phù hiệu. Một hình người toàn thân màu đỏ.”
“Hình người bị lột da của vùng Dreadfort,” Bran nói.
Mùa Hè cất tiếng tru và chạy đi mất.
“Rừng thiêng.” Meera Reed chạy theo con sói với tấm khiên và cây đinh ba trong tay. Những người khác theo sau, họ mò mẫm tiến lên trong làn khói và đất đá ngổn ngang. Không khí có vị ngọt hơn bên dưới những tán cây. Vài cây thông dọc bìa rừng bị thiêu cháy, nhưng sâu bên trong, vùng đất ẩm ướt và cây cối xanh tươi đã đánh bại được ngọn lửa.
“Khu rừng sống này có quyền năng,” Jojen Reed nói, như thể cậu ta biết Bran đang nghĩ gì, “nó có sức mạnh ngang với lửa.”
Bên rìa một vũng nước đen dưới tán cây đước, Maester Luwin nằm úp mặt trên đất. Một vệt máu trải dài trên thảm lá mà ông đã bò qua. Gió Xám đang đứng bên ông, và ban đầu Bran tưởng ông đã chết, nhưng khi Meera chạm vào cổ ông, vị học sĩ rêи ɾỉ.
“Hodor?” Hodor buồn rầu nói. “Hodor?”
Họ nhẹ nhàng lật Luwin lại. Mắt và tóc ông đều có màu xám, và chiếc áo choàng xám của ông sẫm màu hơn ở những nơi máu thấm qua. “Bran,” ông nói nhỏ khi thấy cậu ngồi sau lưng Hodor. “Cả Rickon nữa.” Ông mỉm cười. “Thần linh có mắt. Ta biết mà...”
“Thầy biết ư?” Bran do dự hỏi.
“Đôi chân, ta có thể đoán được... quần áo tuy vừa khít nhưng các múi cơ ở chân... tội nghiệp thằng bé...” Ông ho và máu trào ra từ miệng. “Con đã biến mất... trong rừng... nhưng làm cách nào vậy?”
“Bọn con không hề bỏ đi đâu cả,” Bran nói, “mà chỉ ra đến bìa rừng rồi lại về. Con cho lũ sói đi để tạo dấu vết, nhưng thực ra bọn con trốn trong lăng mộ của cha.”
“Khu hầm mộ.” Luwin mỉm cười, máu trào ra bên mép ông. Vị học sĩ thở gấp vì đau khi ông cố cử động.
Mắt Bran ầng ậng nước. Khi một người bị thương, anh ta sẽ được đưa đến chỗ học sĩ, nhưng khi một vị học sĩ bị thương thì phải làm thế nào đây?
“Chúng ta phải làm một cái cáng để khiêng ông ấy,” Osha nói.
“Vô ích thôi,” Luwin nói. “Ta sắp chết rồi.”
“Không được,” Rickon giận dữ nói. “Thầy không được chết.” Bên cạnh cậu nhóc, Lông Xù nhe nanh gầm gừ.
Vị học sĩ mỉm cười. “Yên lặng nào, cậu bé. Ta lớn tuổi hơn con nhiều. Ta có thể... chết bất cứ khi nào ta muốn.”
“Hodor, cúi xuống,” Bran nói. Hodor quỳ xuống bên cạnh vị học sĩ.
“Nghe này,” Luwin nói với Osha, “các hoàng tử... người thừa tự của Robb. Không... không được ở cùng nhau... ngươi hiểu chứ?”
Người phụ nữ du mục chống tay lên cây giáo. “Đúng. Họ ở xa nhau sẽ an toàn hơn. Nhưng đưa họ đi đâu? Tôi nghĩ, có thể nhà Cerwyn...”
Maester Luwin gắng dùng chút sức tàn để lắc đầu. “Cậu nhóc nhà Cerwyn đã chết. Ser Rodrik, Leobald Tallhart, phu nhân Hornwood... tất cả đều đã bị gϊếŧ rồi. Deepwood cũng đã sụp đổ, cả Moat Cailin, và sẽ sớm đến lượt Torrhen’s Square thôi. Những người dân đảo Iron ở bờ biển Stony. Và ở phía đông là Con Hoang của nhà Bolton.”
“Vậy thì đi đâu được?” Osha hỏi.
“Cảng White... Nhà Umber... ta không biết nữa... chiến tranh ở khắp mọi nơi... người ta đánh nhau với cả láng giềng, và mùa đông đang đến... thật điên rồ, hết sức điên rồ...” Maester Luwin đưa tay nắm lấy cánh tay Bran, các ngón tay ông siết chặt trong cơn tuyệt vọng. “Giờ con phải mạnh mẽ. Mạnh mẽ.”
“Con nhớ rồi,” Bran trả lời, dù điều đó rất khó khăn. Ser Rodrik bị gϊếŧ và Maester Luwin, mọi người, tất cả mọi người...
“Tốt lắm,” vị học sĩ nói. “Cậu bé ngoan. Đúng là con trai... con trai của cha cháu, Bran. Giờ hãy đi đi.”
Osha ngước lên cây đước, nhìn vào khuôn mặt màu đỏ tạc trên thân cây. “Và để ông ở lại cho các vị thần sao?”
“Ta cầu xin...” Vị học sĩ nuốt nước bọt. “Một... một ngụm nước, và... một ân huệ nữa. Nếu ngươi có thể...”
“Được.” Cô ta quay sang phía Meera. “Dẫn các cậu bé ra chỗ khác đi.”
Jojen và Meera dẫn Rickon đi. Hodor theo sau. Những cành cây thấp quét lên mặt Bran khi họ đi giữa rừng cây, và những chiếc lá quệt đi nước mắt của cậu. Ít phút sau Osha gặp họ ở sân. Cô ta không đề cập gì đến Maester Luwin. “Hodor phải đi cùng Bran để cõng ngài ấy,” người phụ nữ du mục nói với vẻ nghiêm nghị. “Tôi sẽ đi cùng Rickon.”
“Chúng tôi sẽ đi với Bran,” Jojen Reed nói.
“Phải, tôi cũng nghĩ cậu sẽ làm như thế,” Osha nói. “Tôi sẽ ra Cổng Đông và đi theo vương lộ.”
“Chúng tôi sẽ đi Cổng Thợ Săn,” Meera nói.
“Hodor,” Hodor kêu lên.
Đầu tiên họ dừng lại ở khu bếp. Osha tìm được vài ổ bánh mì cháy còn ăn được, và xé đôi một con gà quay đã nguội. Meera bới được một bình mật ong và một túi táo to. Họ chia tay nhau ở ngoài. Rickon khóc nức nở và bám lấy chân Hodor cho tới khi bị Osha lấy đầu cây giáo quật vào mông. Chỉ khi đó cậu bé mới nhanh chóng đi theo cô. Lông Xù đi cùng bọn họ. Bran nhìn theo cho tới khi đuôi con sói khuất dần và biến mất sau tòa tháp vỡ.
Chiếc khung lưới sắt ở Cổng Thợ Săn đã bị méo mó bởi sức nóng, đến nỗi mọi người không thể nâng nó lên khỏi mặt đất quá ba mươi phân. Họ phải lần lượt chui qua bên dưới những chiếc cọc nhọn.
“Chúng ta sẽ đến chỗ lãnh chúa cha hai người chứ?” Bran hỏi khi họ đi qua cây cầu kéo giữa các bức tường thành. “Đến pháo đài Greywater?”
Meera nhìn sang em trai và chờ đợi câu trả lời. “Chúng ta sẽ đi về phía bắc,” Jojen thông báo.
Đến rìa cánh rừng sói, Bran quay đầu nhìn lại tòa lâu đài lần cuối, nơi từng là cả cuộc sống của cậu. Những cột khói vẫn bốc lên bầu trời xám xịt, nhưng không phải từ các ống khói của Winterfell trong một buổi chiều thu lành lạnh nữa. Muội bồ hóng đánh dấu các lỗ bắn tên, và đây đó trên bức tường ngoài có những vết nứt hoặc đổ vỡ nham nhở trên hàng rào chắn răng cưa, nhưng từ khoảng cách xa Bran nhìn không rõ. Trên cao, mái của các pháo đài và tòa tháp vẫn uy nghiêm đứng đó giống như hàng trăm năm trước, và ít ai có thể nghĩ tòa lâu đài đã bị thiêu trụi và phá hủy khi nhìn chúng. Những tảng đá vững vàng, Bran tự nhủ, những bộ rễ đã ăn sâu, và dưới lòng đất, các vị Vua Mùa Đông vẫn đang ngồi trên những chiếc ngai của họ. Chỉ cần những thứ đó còn thì Winterfell vẫn tồn tại. Nó không chết mà chỉ bị thương thôi. Giống như mình vậy, cậu nghĩ. Mình cũng không chết.