Chương 11: Quỷ kỳ tái xuất Tung Sơn loạn Tuyết lạc Sơn Đông tán cát nhân
Đến nửa đêm thì Tử Khuê đã nghe hết cuộc hành trình giang khổ của Trác Thanh Chân từ Thiểm Tây đến đây. Nàng không một xu dính túi, chẳng chút hành trang, trên đường thiên lý sống bằng quả rừng hoặc thực phẩm cướp giật được. Và khổ thay, Thanh Chân lại là cung nữ của Lôi Đình Đế Trác Ngạn Chi. Ai dính dáng đến nàng là dính họa vào thân, chết thảm y như Bàng Nguyên Hối vậy. Nhưng Tử Khuê không làm sao thoát ra cảnh éo le này được. Đấy là chưa kể đến rắc rối trong gia sự khi chàng dắt ả ngốc của nợ này về Hứa Xương.
Còn một vấn đề khá tế nhị là Tử Khuê chẳng thể mạo danh mà lấy người tình của kẻ đã chết. Chàng không biết hai năm trước giữa Thanh Chân và Bàng Nguyên Hối đã xảy ra chuyện gì song không tiện hỏi han. Tử Khuê đánh liều, phó mặc dòng đời đưa đẩy, chờ hạ hồi phân giải. Trước mắt, chàng cố giữ khoảng cách với Thanh Chân để tránh hậu hỏa đáng tiếc về sau. May mà Thanh Chân rất mực ngây thơ, trong trắng, biết câu “nam nữ hữu biệt”, tuy đồng sàng cùng chàng nhưng nằm xa thản nhiên an giấc.
Sáng hôm sau, Tử Khuê thức giấc khá trễ, phát hiện Thanh Chân đã dậy trước mình, đang loay hoay xếp bộ võ phục để chàng thay, có cả đôi bao tay “Ngư giáp miệt”. Nàng cầm một chiếc lên xăm soi và vui vẻ khen:
- Tướng công quả là khéo tay! Chàng sơn phết tinh vi thế này thì người ngoài làm sao nhận ra “Ngư giáp miệt”!
Quả thực là Vô Tướng Quỷ Hồ Dịch Quang San đã cặm cụi mấy ngày trời, dùng một loại sơn đặc biệt phủ lên bên ngoài đôi bao tay quý giá khiến chúng trông như da thật, có cả móng lẫn những nết nhăn ở đốt ngón tay.
Tử Khuê ậm ừ cho qua chuyện rồi rủ nàng rời khách điếm, sang tửu quán đối diện dùng điểm tâm. Thực khách khá đông và trong số ấy có không ít người đã từng hiện diện hôm qua, nhưng chẳng có ai nhận ra đôi trai gái phong tư mỹ mạo chính là cặp phu thê quái gỡ chiều qua.
Tử Khuê đã mang chiếc mặt nạ khác, trở thành một hán tử tam tuần để râu mép, mặt mũi vuông vức, cương nghị. Phần Trác Thanh Chân thì quá xinh đẹp, khác xa mụ điên bẩn thỉu mà người ta từng gặp. Nhưng nếu Thiết Đảm Hồng Nhan xuất hiện nơi đây tất sẽ nhận ra y phục mình.
Lát sau, Tống Thụy bước vào, có Thiếu Lâm Thần Côn đồng hành. Tử Khuê thoáng nghe lòng mình mừng rỡ và thức ngộ rằng mình đã ghen với Lã Hoa Dương.
Tống Thụy sững người khi nhìn thấy Trác Thanh Chân. Nàng không thể lầm được vì bộ võ phục máu gan gà mà nữ lang lạ mặt kia đang mặc cực kỳ quen thuộc. Và ngược lại, Thanh Chân cũng nhận ra ân nhân, hớn hở đứng lên vẫy gọi:
- Tống hiền muội!
Vẻ rạng rỡ chân thành của Thanh Chân đã khiến Tống Thụy cảm động, song nàng không nhận lời đồng bàn mà nhã nhặn từ chối:
- Cảm tạ nhị vị! Tiếc rằng hiền muội đã hẹn ăn sáng với Lã huyng đài.
Nói xong, nàng ngồi xuống một bàn trống gần cửa quán, Thanh Chân lộ vẻ bực bội, lầm bầm:
- Té ra cô ả chưa dứt bỏ được gã lừa trọc mắc toi kia!
Tử Khuê chău mày hỏi:
- Lã Hoa Dương nghi biểu đường chính nổi danh là bậc anh hùng hiệp nghĩa, sao Chân muội lại có ác cảm với gã như thế!
Thanh Chân tư lự đáp:
- Tiểu muội đến Lạc Dương cách nay ba hôm. Đêm ấy tiểu muội ngủ trên chạng ba một cây cổ thụ trong hoa viên của Lạc Hà đại khách điếm. Khoảng gần cuối canh ba, có một bóng đen vượt tường rào và nhảy lên lầu, đột nhập vào một phòng có ánh đèn. Tiểu muội tưởng là đạo tặc liền bám theo, rình ngoài lang cang khi nhìn qua khe cửa thì tiểu muội thấy gã họ Lã tay cố lột xiêm y của một mỹ nhân rất đẹp. Nàng ta chống cự yếu ớt và cười bảo: “Chưa lấy được “Dịch Cân Kinh” sao Lã đại ca lại đòi thưởng côn sớm như vậy?”.
Nhưng gã trọc ấy đã cởi được áo ngủ của nàng ta và vung chưởng quạt tắt đèn dầu. Tiểu muội vì xấu hổ mà quay về chỗ ngủ trên cây, không dám nghe ngóng nữa.
Tử Khuê bàng hoàng, kinh hãi, không ngờ Lã Hoa Dương lại vì nữ sắc mà bán mình. Sẵn sàng trộm cả báu vật trấn sơn của phái Thiếu Lâm. Chàng bâng khuâng nhớ đến Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ, một nạn nhân tương tự.
Tử Khuê quyết định sẽ tìm cơ hội thuận lợi, dùng thân phận thật mà cảnh báo sư muội của mình và chùa Thiếu Lâm.
Hơn khắc sau, Lã Hoa Dương vẫn chưa đến và ngoài cửa quán vang lên tiếng ồn ào, náo nhiệt. Người ta kháo nhau rằng đã tìm thấy tung tích của Phi Điểu Thần Ma Lục Doãn Ngôn, tại ngọn Độc Nha Sơn cách núi Ngũ Nhũ chừng ít dặm về hướng bắc.
Thế là thực khách vội vã gọi tiểu nhị tính tiền, hoặc quăng đại bạc lên bàn rồi rời tửu quán. Tống Thụy cũng vậy.
Tử Khuê đến đây để tìm Quân Sơn chân nhân chứ chẳng phải vì “Diêm Vương quỷ kỳ” nên không vội, điềm nhiên ăn nốt bữa sáng.
Thanh Chân nhìn theo bóng Thiết Đảm Hồng Nhan và nhận xét:
- Tội nghiệp Tống Thụy hiền muội! Chắc nàng ta rất buồn khi gã trọc kia đã hẹn mà không đến!
Tử Khuê đã giới thiệu tên họ của Tống Thụy Thụy cho Thanh Chân biết nhưng không tiết lộ quan hệ sư huynh, sư muội. Nghe thấy Thanh Chân cứ đòi làm chị, chàng bật cười bảo:
- Thiết Điểm Hồng Nhan năm nay đã hăm sáu, hăm bảy tuổi. Chân muội niên kỷ bao nhiêu mà sao cứ gọi nàng ta là em!
Trác Thanh Chân bối rối đáp:
- Chết thật! Thế mà tiểu muội tưởng Tống Thụy mới tuổi đôi mươi!
Nói xong, nàng ta bưng chén trà lên uống, ánh mắt rất kỳ lạ, và rốt cuộc Tử Khuê cũng không biết tuổi của Thanh Chân.
Ăn xong, Tử Khuê nghiêm nghị bảo:
- Ta đến đây với mục đích tầm thù, cuộc chiến nguy hiểm khó lường, Chân muội hãy ở khách điếm mà chờ đợi!
Thanh Chân lắc đầu, phụng phịu nói:
- Phu thê sống thác có nhau. Vả lại Thanh Chân thừa sức tự bảo vệ, chẳng để chàng phải vướng bận.
Tử Khuê hổ thẹn với vong linh Bàng Nguyên Hối nên đã dạy Thanh Chân cách xưng hô đại ca, tiểu muội, không cho nàng gọi mình là tướng công và xưng thϊếp nữa. Chàng cũng căn dặn Thanh Chân không tiết lộ cái danh tính Quách Tử Khuê của mình. May thay, Thanh Chân rất ngoan ngoãn, nhất nhất vâng lời.
Nhớ đến tài khinh công quỷ khốc thần sầu của nàng, Tử Khuê tạm yên lòng đồng ý cho nàng tháp tùng. Nhưng chàng cẩn thận dặn dò:
- Chân muội cứ đứng ngoài quan chiến, khi thấy ta đào tẩu thì lập tức chạy theo!
Thanh Chân tủm tỉm cười:
- Té ra đại ca thông đạt hơn người, không thí mạng vô ích như phần lớn bọn đại hiệp trong thiên hạ.
Tử Khuê nhếch mép cười buồn:
- Ta vì an nguy, hạnh phúc của người thân mà phải suốt đời giấu mặt và chạy trốn, thiếu lúc cũng tủi phận, nào dám xem mình là hiệp khách Thanh Chân che miệng cười khúch khích:
- Vô danh thì đã sao! Bọn nữ nhân tiểu muội cần một trượng phu còn sống chớ không mong phải thờ phụng một vị đại hiệp chết non.
Câu nói mộc mạc giản dị ấy chứa đầy chân lý khiến Tử Khuê được an ủi, gật đầu khen phải. Thanh Chân cẩn thận mua vài chục cái bánh bao không nhân và một bầu nước nhỏ. Nàng vui vẻ phân bua:
- Lỡ chúng ta có phải đào tẩu vào rừng thì cũng có cái mà ăn.
Hai người rời quán, đuổi theo đám quần hào. Thật ra, họ không đơn độc vì hàng ngàn người khác cũng đang rời khu liều vải mà tiến về hướng Độc Nha sơn.
Qua câu chuyện của mọi người, Tử Khuê hiểu đại khái rằng sáng nay khá nhiều kẻ dậy sớm đã phát hiện một cánh chim ưng thật lớn bay vần vũ trên bầu trời. Họ lập tức cắt rừng vượt núi tiến đến vị trí ấy, bắt gặp con linh điểu tại Độc Nha sơn.
Chim không chết thì Phi Điểu Thần Ma cũng phải còn sống. Hoặc giả gã họ Lục có qua đời rồi thì trong xác vẫn còn “Diêm Vương quỷ kỳ”. Nhưng khổ thay, địa hình Độc Nha sơn cực kỳ cổ quái và hiểm ác, khiến những kẻ đến trước phải chùng chân.
Độc Nha sơn là một ngọn núi nhỏ chỉ cao độ năm sáu chục trượng tựa như chiếc răng sói nhọn hoắt dựng ngược, cây cối ít ỏi, trơ màu đá xám xịt.
Hình dáng núi chẳng dọa được ai nhưng vùng đất xung quanh núi lại sụt xuống thành một chiếc hào thiên nhiên sâu hun hút, sương mù mờ mịt.
Con đường duy nhất để vào Độc Nha sơn là phần đất còn lại chưa sập xuống thành vực thẳm. Tuy nhiên, do nước mưa xói mòn nhiều năm mà đỉnh của dải đất dài mười mấy trượng ấy mỏng lét, chẳng khác đường sống lưng trâu. Tất nhiên là con đường rất ghập ghềnh, có đoạn chỉ đặt vừa lòng bàn chân. Và kẻ nào sơ xuất sẽ rơi xuống khe núi mà về với ông bà.
Đó là lý do Độc Nha sơn vắng dấu chân người, và giờ đây khiến lòng kẻ học võ mấy chục năm phải ngao ngán.
Cuối giờ Thình thì quần hùng đã tề tựu đông đủ, kẻ dưới đất người trên cây, ngắm cảnh Độc Nha sơn mà lắc đầu.
Đứng gần bờ vực vì con đường duy nhất chính là năm phái Bạch đạo và những bang hội hùng mạnh như Chiết Mai bang, Bích Huyết bang, Xoa Lạp cốc, Thần Đao bảo.
Bảo chủ Tần Minh Viên đứng cạnh Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn, công khai mối liên minh giữa hai người. Lực lượng Xoa Lạp cốc do Thiếu cốc chủ Nhạc Cuồng Loạn thống lĩnh, ở vị trí sát với Thần Đao bảo tựa như cùng một phe. Họ Nhạc còn bàn bạc với Tần Minh Viên và Âu Dương Mẫn.
Trong hàng Chiết Mai bang và Bích Huyết bang không thấy có Nam - Bắc Thiên Tôn nên xem ra họ khá kém thế. Nhưng chẳng phải vì hùng mạnh hơn mà phe Âu Dương Mẫn dám nhanh nhẩu tiến vào Độc Nha sơn.
Vào thì được nhưng lúc ra sẽ khó toàn thây khi kẻ địch trấn giữ đầu đường độc đạo mà tấn công. Dẫu võ nghệ siêu phàm cách mấy thì cũng toi mạng khi mãnh đất dưới chân quá hẹp và sẵn sàng sụp lỡ bất cứ lúc nào.
Nghĩa là trước khi tiến bước thì phải chiếm được khoảnh đất đầu đường sống trâu kia. Nhưng lúc ấy, phe mạo hiểm sẽ trở thành kẻ địch của mấy ngàn người còn lại, và ở thế quay lưng vào vực thẩm. Do đó, chưa lực lượng nào dám liều mạng cả.
Tử Khuê và Thanh Chân đã nhảy tót lên một ngọn cây du núi cao vυ"t.
Nhận ra Nhạc Cuồng Loạn, Tử Khuê lo ngại chỉ cho nàng thấy:
- Chân muội! Gã công tử áo xanh, búi tóc cài ngân quang kia là Thiếu cốc chủ Xoa Lạp cốc, tên Nhạc Cuồng Loạn. Gã ta đã từng học võ ở Lôi Đình thần cung nhiều năm, tất sẽ nhớ mặt nàng. Chân muội hãy tránh đừng cho gã gặp mặt!
Thanh Chân mỉm cười đắc ý:
- Đại ca yên tâm! Trước đây gã mắc toi ấy chưa nhìn thấy tiểu muội lần nào.
Tử Khuê yên tâm và thầm ngạc nhiên song không muốn hỏi cho rõ.
Chàng chú mục quan sát Độc Nha sơn, phát hiện trên vách đá đoạn gần chân núi có rất nhiều hang động. Cái sát mặt đất, cái ở cao năm sáu trượng. Có lẽ không phải chỉ ở mạn nam này mà chung quanh núi đều lỗ chỗ hang hốc như thế. Hiện nay, con chim ưng đã sà xuống và biệt tăm, chẳng rõ chui vào xó nào.
Nghĩa là, khi sang được bên ấy, người ta cũng khó mà biết đích xác Phi Điểu Thần Ma ở đâu trong hàng trăm hang động tối tăm kia.
Bổng quần hùng ồn ào hẳn lên, xôn xao bảo nhau rằng Nam Thiên Tôn và Bắc Thiên Tôn đã giá lâm.
Tử Khuê hiếu kỳ nhìn xuống, thấy thấp thoáng một toán bảy, tám người đang tiến vào rất nhanh. Cuối cùng họ đã đến mảnh đất quang đãng không cây cối, gần mép vực, Tử Khuê mới nhìn rõ hơn.
Không khó để nhận biết lai lịch của hai vị đại kỳ nhân vì phong thái bất phàm cũng như vũ khí thành danh của họ. Bắc Thiên Tôn Phùng Thịnh Đoan mặc áo bào trắng, áo cừu cũng trắng và trong hình thái cực tiên chiếc mũ đạo sĩ có đính hai viên bảo ngọc, một đỏ một xanh. Bộ râu năm chòm của lão cũng trắng muốt, tô điểm cho gương mặt phương phi, đỏ hồng thêm phần tiên khí.
Theo sau Bắc Thiên Tôn là một đạo sĩ bạch y tuổi quá bốn mươi, mặt không râu, gân guốc, cương nghị, thân thể lực lưỡng. Hắn ta tên gọi là Lã Bất Thành, chính thị đại đệ tử của Bắc Thiên Tôn.
Thực ra, Phùng lão vốn sở trường nghề đánh trường kích, vũ khí thành danh của Lữ Bố thời Tam Quốc. Trường kích dài và nặng nề, chẳng phải thứ mà ai cũng múa nổi, nhất là đàn bà. Cho nên, Lã Bất Thành sức lực hơn người, chân truyền pho “Bạch Vân kích pháp”. Còn Dương Tố Vy Bang chủ Chiết Mai bang thì chỉ được học nghề đánh kiếm, sở đoản của Bắc Thiên Tôn.
Tuy Lã Bất Thành không xuất đạo, chỉ quanh quẩn nơi đất Sơn Tây, song võ lâm đều biết bản lĩnh của gã chỉ kém Bắc Thiên Tôn vài bậc. Ba mươi mấy năm ròng, Bất Thành tận tụy hầu hạ sư phụ, khổ công rèn luyện, chả biết mùi tửu sắc, còn đáng mặt tiên ông hơn cả Phùng Thịnh Đoan. Cho nên, thành tựu của họ Lã rất cao. Nếu ngày nào đó gã đánh bại sư phụ của mình thì cũng là điều dễ hiểu.
Nhưng giờ đây, con người hiếu võ thành tật ấy đang lặng lẽ vác cây “Bạch Vân kích” dài sáu xích, nặng ba mươi cân, theo hầu Bắc Thiên Tôn. Lã Bất Thành cũng có một cây dài kích nặng y như thế, do sư đệ của gã vác hầu.
May mà gã ấy gầy gò, học kiếm pháp, không thì lại có thêm một gã khác ôm kích theo sau.
Phần Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến thì ngược lại. Gã này chuộng màu đen cả da dẻ cũng đen đen. Chỗ trắng trẻo trên người lão là mớ tóc bạc và bộ râu ngắn ngủn, lưa thưa. Hàm răng thì không tính vì đã vàng ố và rơ mất vài chiếc.
Tuyệt học khí công Trung Hoa có thể giúp người ta khỏe mạnh, sống lâu song bất lực trước sự tồn vong của những chiếc răng. Chúng thản nhiên tàn tạ mục nát, hoặc lung lay rồi rơi rụng bất kể vị chủ nhân già có đến hàng trăm năm công lực. Ngay Trương Tam Phong cũng còn móm xọm chứ đừng nói ai.
Răng bền chắc hay không là tùy thuộc vào những yếu tố khác. Ví dụ như dân Giao Chỉ chẳng hạn. Họ có tập quán nhuộm răng đen và ăn trầu nên hàm răng cực kỳ tốt, dẫu đến tuổi tám mươi mà vẫn chưa hề lay chuyển chiếc nào.
Tóm lại, đại đa số các cao thủ lão thành của võ lâm Trung Hoa đều thiếu vài chiếc răng khi đến tuổi bảy mươi, thậm chí năm sáu mươi, không chỉ riêng mình Nam Thiên Tôn. Chẳng qua lão xui xẻo rụng nhầm răng cửa trông không được đẹp mắt đấy thôi!
Vác vũ khí theo hầu Từ lão là một đạo sĩ trung niên, thân hình phốp pháp, to béo, mặt tròn nung núc thịt, thần sắc thật thà, kém oai phong hơn Lã Bất Thành.
Gã ta tuổi mới bốn hai, tên gọi Khổng Đam, biệt hiệu Hồ Đồ Thần Thương. Một người mang họ của Khổng Từ và tên của Lão Tử thì tại sao lại có thể không sáng suốt nhỉ. Thế mà Khổng Đam lại ngốc không thể tưởng được.
Học võ từ năm mười bốn tuổi, đến tam thập thì Khổng Đam hạ sơn, tự xưng là Giang Nam Thần Thương. Gã tự cho mình là hiệp sĩ nên can thiệp vào đủ mọi chuyện trên đường giong ruổi, gây những chuyện cười ra nước mắt.
Có lần, Khổng Đam gặp cảnh năm đánh một liền hớn hở xông vào giúp kẻ thế cô. Nào ngờ, đấy là năm vị bộ đầu mặc thường phục truy bắt hung thủ cướp của gϊếŧ người. Rốt cuộc tên đạo tặc trốn thoát, còn Khổng Đam bị bắt giải về phủ Trường Sa. May mà Nam Thiên Tôn rất được quan lại Hồ Nam nể trọng nên cứu được đứa học trò đại ngốc khỏi cảnh tù tội.
Từ đó giới gian hồ gọi Khổng Đam là Hồ Đồ Thần Thương. Và gã cũng bị sư phụ bắt về núi, không cho đi rong nữa.
Tuy tư chất kém cỏi nhưng Khổng Đam có thần lực kinh nhân, đường thương nặng như núi Thái. Cho nên dẫu Trịnh Bá Nghiêm được Từ lão ưu ái, hết dạ tài bồi mà vẫn không hơn được họ Khổng.
Nghĩa là, sau này Lã Bất Thành cùng Khổng Đam sẽ đại diện cho Bắc Thiên Tôn, Nam Thiên Tôn để đấu với Quách Tử Khuê, trong cuộc phó ước Tam Tôn.
Văn tự thì dài dòng song Tử Khuê nhận biết bốn nhân vật kể trên đã từ lâu, qua lời tường thuật của nghĩa phụ Trung Thiên Tôn. Chàng đặc biệt chú ý đến lão đạo sĩ áo xanh, lưng đeo trường kiếm đang đi giữa Nam - Bắc Thiên Tôn. Tử Khuê bồi hồi, linh cảm rằng đây có thể là Quân Sơn chân nhân Đường Mai Giãn, kẻ đã hại chết Tam sư thúc của mình. Lão ta hơi bị gù lưng, trán hói cao, rất giống lời mô tả của Lỗ phán quan.
Và lời phỏng đoán ấy đã được xác nhận khi Song Tôn đến vị trí của phe Bạch đạo. Sáu vị Chưởng môn nhân đều bước ra thi lễ vì Song Tôn là bằng hữu của sư phụ họ.
Bắc Thiên Tôn vui vẻ giới thiệu bạn đồng hành:
- Này lục vị! Đây là Quân Sơn chân nhân Đường Mai Giãn ở Trường Sa, sư đệ của bần đạo.
Tử Khuê thoáng giật mình, không ngờ lão quỷ này là đồng môn với Bắc Thiên Tôn. Việc này sẽ khiến việc trả thù của chàng thêm phần khó khăn.
Lục vị Chưởng môn cũng cùng tâm trạng như Tử Khuê. Họ căm giận Đường Mai Giãn đã ám hại vị ân nhân là Cửu Hoa Thánh Y, song không có bằng cớ nên đành cố nhịn. Tuy cả thiên hạ đều tin rằng có Âm ty, có ma quỷ, nhưng họ chẳng thể đưa Lỗ phán quan ra làm chứng được. Nay Quân Sơn chân nhân lại dựa hơi Bắc Thiên Tôn thì càng khó bắt tội lão ta.
Sáu vị long đầu cắn răng gật đầu thủ lễ, nhìn Đường Mai Giãn với ánh mắt lạnh tanh. Bắc Thiên Tôn không hiểu ẩn tình, phật ý bởi cho rằng đáng lẽ đối phương phải “vị thần nể cả cây đa”, vì lão mà tôn trọng sư đệ của lão.
Quân Sơn chân nhân thì chột dạ tự nhủ:
- Chẳng lẽ họ biết ta gϊếŧ Cỗ Sĩ Hoành? Không thể được, chẳng ai chứng kiến việc ấy cả!
Lúc này Bắc Thiên Tôn đã đổi sắc, nghiêm nghị nói sang sảng:
- Kính cáo Hội đồng Võ lâm cùng toàn thể chư vị anh hùng. Bần đạo nay đã tám mươi sáu tuổi, gần đất xa trời, nhưng quyết đem sức tàn phù trì xã tắc, giữ vững cơ đồ Đại Minh. Bởi vậy, bần đạo mới cần đến cây “Diêm Vương quỷ kỳ” làm phương tiện để phá tan những đạo quân Mông Cổ đang uy hϊếp biên thùy phía Bắc.
Lão chắp tay, cúi đầu rồi nói tiếp:
- Thánh thượng anh minh tất hiểu tấm lòng trung nghĩa của bần đạo nên đã hạ Thánh chỉ truyền bần đạo thu dụng linh kỳ. Phiền chư vị cùng quỳ xuống để nghe khâm sai đại nhân Đổng Phúc của Đông Xưởng tuyên đọc Thánh chỉ!
Nói xong, lão lùi lại vài bước, kính cẩn mời một hán tử áo gấm, mang đao, thần thái kiêu ngạo. Gã này nãy giờ đứng cạnh Lã Bất Thành phía sau Song Tôn.
Nghe nhắc đến Thánh Thượng và Đông Xưởng thì ai cũng chột dạ, hiểu rằng linh kỳ khó thoát khỏi tay lão mắc dịch họ Phùng. Và tất nhiên sẽ chẳng có đánh đấm gì cả!
Tiếc công lặn lội đường xa và dầm sương gội gió bấy lâu nay, một gã cứng đầu bực bội buột miệng chửi thề:
- Mẹ kiếp! Cả lũ đang bám trên cây như khỉ thế này thì quỳ thế quái nào được!
Quả thật vậy, trừ những lực lượng mưu đồ tranh đường đi tiên phong vào Độc Nha sơn, kỳ dư đều tìm vị trí tốt để quan sát, và không ít người đã chọn ngọn cây.
Khách gian hồ quen thói phóng túng, ngang ngược và chẳng ưa gì triều đình. Bởi họ đã chứng kiến qua nhiều cảnh lầm than khổ ải của lê dân. sưu cao, thuế nặng và sự nhũng nhiễu tham tàn của bọn quan lại địa phương đã khiến dòng máu hiệp sĩ sục sôi. Từ đó, trong lý tưởng “Trừ bạo an dân” bao hàm cả việc gϊếŧ quách vài gã quan tham cho dân dễ thở.
Với tâm lý ấy, quần hào chán ghét khi nghe nhắc đến Thánh chỉ. Họ ồ lên tán thành ý kiến của cái gã đang đánh đu trên cây. Và khổ thay, một gã dốt kinh khủng nào đó đã oang oang hỏi lớn với giọng thơ ngây:
- Lạ thật! Thánh thượng là cái lão quái nào thế nhỉ? Lão ta đã chết chưa mà cứ bắt chúng ta quỳ lạy mãi thế?
Gần nửa vạn người phá lên cười muốn lộn ruột, làm chấn động cả vùng núi Tung Sơn. Thậm chí có kẻ còn cười đến nỗi rơi từ trên cây xuống.
Họ không thể không cười vì kẻ phát ngôn chính là Hồ Đồ Thần Thương Khổng Đam, đại đệ tử của Nam Thiên Tôn.
Từ lão tái mặt nạt học trò:
- Câm ngay! Ngươi muốn bị tru di tam tộc hay sao mà dám phạm tội khi quân. Mau quỳ xuống nhận tội!
Rồi lão quay sang van nài phân bua với vị khâm sai đại nhân họ Đổng ở Đông Xưởng, Nam Thiên Tôn còn nháy nhó lia lịa, ra hiệu rằng sẽ chuộc lỗi cho đồ đệ bằng vàng ròng chứ chẳng phải nói suông.
Đổng Phúc hiểu ý, xuề xòa phán rằng:
- Khổng Đam ngu muội, hồ đồ khét tiếng võ lâm, ai ai cũng biết, nên bổn nhân chẳng chấp nhất làm gì. Nếu là kẻ khác thì không khỏi tội chém ba họ.
Khổng Đam đang quỳ dưới đất, rung như cầy sấy, nghe vậy thì mừng rỡ, dập đầu lạy Đổng Phúc như tế sao.
Họ Đổng xua tay bảo gã đứng dậy rồi nghiêm nghị nói với toàn trường.
Người của Đông Xưởng đều là tay võ nghệ khá nên giọng của Đổng Phúc vang rền, hùng mạnh:
- Đúng là địa thế này không thích hợp để giữ đúng triều nghi nên chư vị hảo háo có thể đứng yên mà nghe Thánh chỉ cũng được!
Nói xong, Đổng Phúc cầm luôn lịnh kỳ bằng hai tay hướng về phương bắc mà vái ba vái. Nào ngờ từ trên ngọn cây của một cây tùng cao ngất nào đó, phía sau quần hào có một bóng xám lao vυ"t xuống như tên bắn. Thành ngữ “Nhanh như cắt” thường được dùng để miêu tả, tung xưng tốc độ bay của loài chim ưng nhỏ của vùng thảo nguyên, sa mạc. Chim cắt khá giống diều hâu nhưng nhanh nhẹn hơn nhiều.
Và khổ thay, mục tiêu của con chim hung hãn ấy là cuộn lục Thánh chỉ trong tay Đổng Phúc. Họ Đổng vừa đưa lên vái cái thứ ba thì bị giật mất.
Sự cố này xảy ra trong chớp mắt khiến chẳng ai kịp phản ứng. Ngay cả hai vị đại kỳ nhân Nam - Bắc Thiên Tôn cũng ngơ ngác. Khi họ định thần thì con chim mạt cắt đã bay lên cao mười mấy trượng. Toàn trường xôn xao, ớ lên vì kinh ngạc, trố mắt nhìn cánh chim đang lã lướt trên không trung. Nó không bay thẳng về hướng nào mà lại lượn lờ theo hình xoắn ốc trên đầu quần hùng và bốc dần lên cao.
Con chim quái ác đã sai lầm vì đã quên rằng nơi đây có sự hiện diện của Trung Nguyên Thần Tiễn Phan Nguyên Kết.
Phan lão đã đủ thì giờ tra tên, giương cung trổ tài thiện xạ. Mũi trường tiễn xá không gian, đón lấy chim cắt ngay trên quỹ đạo bay của nó.
Do quá vội vã, không kịp tính toán đến sức gió thổi, nên Phan Nguyên Kết, chỉ thành công một nữa. Mũi tên của ông ta không cắm trúng mục tiêu và chỉ làm rụng vài chiếc lông cánh của con chim.
Nhưng như thế cũng đủ khiến cho chú chim phạm thượng kia sợ hãi, buông rơi Thánh chỉ, bay về hướng Độc Nha sơn.
Cuộn lụa vàng bung ra, như chiếc diều đứt dây, lão đảo rơi xuống khu rừng cạnh bờ vực, nơi quần hào đang nhốn nháo.
Tuy Thánh chỉ chẳng phải là cứt chim nhưng nó vẫn thản nhiên đáp xuống cái đầu xui xẻo của Quách Tử Khuê. Chàng đưa tay chụp lấy, bâng khuâng chẳng biết phải xử trí thế nào.
Cây cổ thụ mà Tử Khuê và Trác Thanh Chân đang đứng nằm ngay sau lực lượng Chiết Mai bang, Bích Huyết bang. Bởi vậy, bang chúng của hai bang ấy lập tức vây chặt lấy gốc cây và Trịnh Bá Nghiêm đã lên tiếng bảo Tử Khuê:
- Phiền các hạ mang Thánh chỉ xuống giao lại cho Trịnh mỗ!
Nhớ đến lời dạy của nghĩa phụ Trung Thiên Tôn, Tử Khuê chẳng muốn “Diêm Vương quỷ kỳ” lọt vào tay kẻ xấu. Nhưng việc cướp đoạt Thánh chỉ là một việc mà chàng không hề nghĩ đến.
Chợt cô ả Trác Thanh Chân thỏ thẻ:
- Quách đại ca! Năm trước, tiểu muội từng được nghe Lôi Đình Đế Quân tiết lộ rằng Bắc Thiên Tôn đã bí mật gã con gái út cho một vị vương tử Mông Cổ. Do đó tiểu muội không tin rằng Phùng lão quỷ lại muốn đánh nhau với con rể của mình. Ngược lại, có thể lão ta sẽ dùng “Diêm Vương quỷ kỳ” để giúp quân Mông vượt Vạn Lý Trường Thành, xâm chiếm Trung Hoa lần nữa kìa!
Nghe xong, Tử Khuê toát mồ hôi hột, hiểu rằng không thể Phùng Thịnh Đoan chiếm được cờ báu. Và muốn ngăn cản lão ta thì trước tiên chàng phải đoạt lấy đạo Thánh chỉ này. Khi Song Tôn không còn hậu thuẫn của triều đình, các lực lượng khác sẽ chẳng để hai lão tự tung tự tác.
Tử Khuê nhìn vòng vây đen kịt dưới gốc cây mà ngao ngán, biết mình khó toàn mạng khi đem Thánh chỉ đào tẩu. Nhưng nghĩ đến cảnh Bắc Thiên Tôn vũ lộng Quỷ kỳ, dẫn quân Mông Cổ vào giày xéo giang sơn, gieo rắc tang tóc cho lê thứ, thì Tử Khuê vô cùng phẫn hận. Chàng nghiêm nghị bảo Thanh Chân:
- Chân muội! Có thể Song Tôn là tay sai của rợ Mông. Bởi vậy, ta quyết liều thân, không để họ đoạt được “Diêm Vương quỷ kỳ”. Nàng hãy ở yên trên này, chờ ta xuống gây rối hàng ngũ đối phương rồi hãy thoát đi.
Chàng vừa nói đến đây thì Nam Thiên Tôn nóng nảy thúc giục:
- Này tiểu tử kia! Ngươi không sợ chết hay sao mà cứ kiên trì mãi vậy?
Mau mang Thánh chỉ xuống đây nạp!
Tử Khuê hoãn binh bằng một câu:
- Tại hạ muốn xin ít tiền thưởng. Từ lão tiền bối nghĩ sao?
Trong lúc Nam Thiên Tôn hội ý với đồng đảng thì Thanh Chân mỉm cười bảo Tử Khuê:
- “Uyên ương đồng mệnh”, thϊếp quyết chẳng rời chàng một bước.
Nhưng thật ra, sự tình nào đến nỗi bi đát như thế. Đại ca cứ giả vờ đem Thánh chỉ xuống giao cho gã khâm sai, rồi bất ngờ chúng ta chạy thẳng vào Độc Nha sơn. Nếu tìm được “Diêm Vương quỷ kỳ” thì lo gì không gϊếŧ được Song Tôn?
Bằng không, với địa hình đầy hang động kia thì lo gì họ tìm ra đôi ta!
Dẫu đây không phải là thượng sách còn hơn đâm đầu vào chỗ chết, Tử Khuê cao hứng khen ngợi và vui vẻ sửa sai:
- Chân muội giỏi lắm! Nhưng muội quên một điều là chúng ta không hề biết câu thần chú điều khiển linh kỳ. Nếu tìm được cờ thì cũng chẳng làm gì nổi đối phương.
Ánh mắt Thanh Chân rực sáng, mặt rạng rỡ vẻ hí hửng trẻ thơ. Nàng đắc ý đáp:
- Sao đại cao lại nghĩ rằng tiểu muội không biết câu thần chú ấy?
Cùng lúc, tiếng Nam Thiên Tôn vọng đến:
- Lão phu đồng ý thưởng cho ngươi hai chục lượng vàng. Xem ra số ngươi cũng may mắn lắm đấy!
Tử Khuê nhếch mép cười đau khổ khi có kẻ khen mình số đỏ. Chàng cao giọng phúc đáp:
- Cảm tạ Từ tiền bối! Tại hạ sẽ tận tay dâng nạp Thánh chỉ để nhận phần thưởng.
Nói xong, chàng cùng Trác Thanh Chân chậm rãi chuyền xuống gốc cây, cố tỏ ra rằng võ công mình thấp kém.
Trịnh Bá Nghiêm, Dương Tố Vy cùng bọn bang chúng trố mắt nhìn gương mặt kiều diễm và thánh thiện của Trác Thanh Chân. Nàng ta không rực rỡ như Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Thái Vân, không quyến rũ một cách kính đáo như Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy, mà mang vẻ đẹp ngây thơ, trong trắng của một cô bé mười bốn, mười lăm tuổi.
Tử Khuê và Thanh Chân đủng đỉnh đi xuyên qua vòng vây, tiến về hướng bờ vực. Lúc này các lực lượng Hắc - Bạch đang đứng thành hình cánh cung trước đầu con đường hiểm đạo dẫn vào Độc Nha sơn.
Khi lọt đến khoảng đất trống trước mặt họ, thay vì rẽ phải vài trượng để gặp Song Tôn, hai người bất ngờ lướt nhanh như gió thoảng.
Khoảng cách bảy tám trượng chẳng là gì đối với kẻ có tài nghệ khing công cao cường như Tử Khuê. Thi triển “Thao Quang thân pháp”, chàng hóa thành chiếc bóng mờ lao vυ"t đi, đặt chân lên con đường rồi thì kẻ địch mới kịp có phản ứng. Thanh Chân bám sát chàng như bóng với hình, môi nở nụ cười tươi chẳng chút sợ hãi. Tử Khuê không hề lo lắng cho ả vợ hờ vì biết khinh công của Thanh Chân còn cao hơn mình.
Nam - Bắc Thiên Tôn cùng những người chứng kiến diễn biến này hốt hoảng ồ lên và nhất tề tung mình đuổi theo hai kẻ liều mạng kia.
Tùy theo bản lĩnh và khoảng cách xa gần mà thứ tự những người truy đuổi được phân biệt. Đi đầu là Bắc Thiên Tôn, kế đến là Nam Thiên Tôn, rồi Quân Sơn chân nhân, Thiếu chủ Cáp Lộc Xoa Nhạc Cuồng Loạn, Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn...
Như đã nói ở trên, con đường xuyên vực này cực kỳ hiểm trở, nhỏ hẹp và không vững chắc. Đất đá trên mặt đường có thể vỡ ra bất cứ lúc nào. Do vậy, Tử Khuê phải sử dụng đến phép “Đăng bình độ thủy” (Đạp bèo qua sông). Yếu quyết của phép khinh công này chính là sức phóng đi cực mạnh lúc ban đầu.
Lực quán tính sẽ được bổ sung bằng hàng ngàn phản lực nhỏ bé do mũi giày của Tử Khuê chạm vào mặt đất. Nghĩa là, bước chân của chàng rất ngắn, chỉ độ hai gang và liên tục điểm trên đất đá. Dẫu chúng có sập lỡ thì thân hình chàng cũng lướt qua rồi.
Bèo thì quá nhẹ nhưng với công phu này người ta có thể hoàn toàn chạy một đoạn trên mặt nước, khi dưới chân có những khúc gỗ hoặc phên tre nổi lềnh bềnh.
Giờ đây theo từng bước chân của Tử Khuê, những viên đá, những mảnh đất lỏng chỏng, hờ hững bám trên mặt đường bị long lỡ, rơi xuống vực thẳm như mưa rào. Điều này sẽ gây khó khăn cho người đuổi theo chàng, nhất là Trác Thanh Chân. Nhưng Tử Khuê và nàng đã liên kết thành một khối. Thanh Chân nắm chặt lấy chốt bao của thanh kiếm mà tay phải Tử Khuê đưa về sau, thản nhiên tiếp bước. Thân hình nàng nhẹ nhàng như đám mây không trọng lượng bồng bềnh bám lấy Tử Khuê. Dù đôi lúc chân nàng chẳng chạm vào điểm tựa nào, vì chúng đã bị Tử Khuê đạp rơi mất, thì sức nâng của trường kiếm cũng giúp nàng không lỡ bộ.
Nhưng ngược lại, Bắc Thiên Tôn và những người đang ở phái sau lão phải luôn giữ một khoảng cách an toàn để tránh cảnh tan xương nát thị dưới vực sâu. Do vậy mà họ đã chậm chân, để đôi trai gái cổ quái nọ thoát được sang bờ bên kia.
Khi vừa đặt chân lên mặt đất vững chắc, hai người thở mạnh đổi hơi rồi dùng toàn lực vào song cước lao đi. Họ không nhắm đến động khẩu gần nhất ở trước mặt cách gần chục trượng, mà lướt về hướng trái, chạy vòng ra sau núi, nơi con đại ưng của Phi Điểu Thần Ma đã đáp xuống. Vả lại, họ muốn đối phương bị khuất tầm mắt, không nhân ra họ đã chui vào cửa nào trong gần trăm cái hang quanh sườn núi.
Thực ra, Tử Khuê cũng chẳng thể biết Thần Ưng và Thần Ma đang ở chỗ nào. May thay, khi đến gần mạn sau của Độc Nha sơn, chàng tình cờ thấy vài cọng lông chim rơi trên mặt cỏ vàng úa. Tử Khuê mừng rỡ kéo Thanh Chân đình bộ. Hai người cúi xuống nhặt nhanh mấy cọng lông ấy rồi đề khí tung mình lên cao hai trượng, chui vào một động khẩu nhỏ hẹp trên vách đá.
Có thể đây chưa chắc là nơi Phi Điểu Thần Ma ẩn mình song ít nhất cũng đánh lạc hướng được bọn cường địch. Quả thế, chỉ lát sau truy binh đã lướt qua bên dưới, không biết con mồi đã trụ lại.
Trong lúc Tử Khuê và Thanh Chân ngồi thở dốc, nhìn nhau cười cợt, thì số người tiến vào Độc Nha sơn mỗi lúc một đông. Tất nhiên, họ là những cao thủ thượng thừa, đủ dũng khí và tài khinh công để vượt qua độc đạo ghê hồn kia. Nhưng rồi những kẻ kém cũng sẽ qua được bằng cách căng dây sang bên tìm chỗ mà bám víu.
Họ không muốn đứng nhìn nữa bởi vì Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn đã vận công tuyên bố vang rền khắp Độc Nha:
- Minh chủ võ lâm sẽ tặng năm ngàn lượng vàng cho bất kỳ ai may mắn tìm được “Diêm Vương quỷ kỳ” và mang đến đây nạp!
Bắc Thiên Tôn giận dữ ứng tiếng:
- Âu Dương Mẫn chớ loạn ngôn! Lão phu đã được Thánh Thượng ban cho cờ báu, sao ngươi lại dám tranh giành?
Âu Dương Mẫn cười khanh khách:
- Thánh chỉ chưa được tuyên đọc thì sao ta biết Thánh ý thế nào?
Dẫu tức đến thở ra khói mà Phùng Thịnh Đoan vẫn phải cố nén giận vì lực lượng đối phương rất hùng hậu. Hơn nữa, đánh nhau trong lúc chưa tìm thấy linh kỳ thì quả là bất trí. Bắc Thiên Tôn hờ hững bảo:
- Dẫu ngươi có mang được Quỷ kỳ về Tổng đàn Võ lâm thì sau này cũng phải ngoan ngoãn dâng nạp khi lão phu có đạo Thánh chỉ trong tay. Chỉ sợ lúc ấy ngươi lại tiếc rẻ năm ngàn lượng vàng đấy thôi.
Câu hăm dọa rất có uy lực vì Bắc Thiên Tôn hoàn toàn có thể tìm thấy cái gã đã đoạt Thánh chỉ trong tuyệt địa này. Nhược bằng thất bại, lão vẫn có khả năng xin một đạo Thánh chỉ khác. Khi đó, Âu Dương Mẫn mà cố giữ bảo vật thì sẽ mang tội khi quân, chết ba họ chứ chẳn chơi.
Nhưng dường như Âu Dương Mẫn đã có chủ ý nên chẳng hề sợ hãi chỉ cười khẩy.
Hào kiệt tứ hải cùng bang chúng các tà bang đã vào đầy những hang động ở mạn sườn núi phía Bắc Độc Nha sơn. Nhưng bọn thủ lĩnh, long đầu thì cứ đứng cả ở bên ngoài chờ đợi tin tức chứ không dại gì “Mò kim đáy biển”.
Từng phe bàn bạc kế sách hành động khi có người tìm ra cờ báu. Sắc diện ai nấy đều trầm trọng nghiêm trang vì cuộc chiến trước mắt sẽ cực kỳ tàn khốc.
Khổ tâm nhất chính là Hội đồng Võ lâm, đại diện cho chính khí giang hồ.
Là những kẻ tu hành, trừ Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường, các Chưởng môn nhân đều không hề muốn đưa đệ tử vào cảnh máu chảy đầu rơi. Nhưng họ lại không thể đứng nhìn bảo vật rơi vào tay kẻ dữ, di hại đến võ lâm và xã tắc.
Trong lúc do dự bất quyết này, họ tiếc nuối biếc bao bậc tài trí là Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sỹ Hoành.
Giờ đây, sáu phái chỉ còn cách dùng kế “Án binh bất động”, chờ xem sự thể diễn biến thế nào. Đệ tử của họ đều ở cả bên ngoài chân núi, không vào hang tìm linh kỳ.
Thiết Đảm Hồng Nhan chẳng tìm Thiếu Lâm Thần Côn trò chuyện. Nàng thơ thẩn dạo quanh, lơ đãng quang sát những người tìm cách vượt sườn núi, trèo lên những hang động trên cao. Ánh mắt nàng tràn ngập lo âu và pha chút đắng cay, hờn giận. Tống Thụy cho rằng đối phương sẽ tìm thấy hán tử đoạt thánh chỉ, vì đã nhận ra đấy chính là Tử Khuê, người mà nàng thương nhớ bấy lâu nay, cũng buồn phiền vì mỗi lần gặp nhau là bên cạnh Tử Khuê lại có thêm một nữ nhân khác.
Trong đám người của Kỹ Lưu Tiên, Thiết Đảm Hồng Nhan cũng đã phát hiện Trình Thiên Kim, Dịch Tái Vân đồng bàn cùng với Tử Khuê. Với linh cảm của nữ nhân, nàng hiểu rằng hai ả nọ chẳng phải chỉ là khách của nhà họ Kỹ.
Tống Thụy vô cùng ân hận khi đã đồng hành cùng Lã Hoa Dương khiến Tử Khuê không dám đến hỏi han lúc gặp nhau trong tửu quán. Chàng vào quán ấy vì đã nhìn thấy nàng.
Đang miên man suy nghĩ, Thiết Đảm Hồng Nhan bỗng giật mình bởi phía sau có tiếng người gọi:
- Tống nữ thí chủ! Lục vị Chưởng môn nhân mời thí chủ đến đàm đạo!
Tống Thụy quay lại bắt gặp nụ cười tinh quái và gương mặt dễ mến của Linh Tuệ, đệ tử Võ Đương. Nàng gật đầu, đi theo Linh Tuệ đến vị trí mà Hội đồng Võ lâm đang ngồi. Sáu tảng đá đã được sắp xếp dưới bóng một cây bách để các thủ lĩnh già nua đỡ mỏi chân.
Tiết trời mùa Đông lạnh giá, chẳng cần người quạt và trà cũng thiếu nên không ai khác lãng vãng gần nơi ấy. Quy củ của võ lâm là thế, bọn vãn bối không được phép ngồi nghe câu chuyện của các bậc trưởng thượng!
Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương đả mau mắn vác đến cho Tống Thụy một tảng đá để ngồi rồi rút lui.
Thiết Đảm Hồng Nhan ôm quyền thi lễ với Hội đồng Võ lâm:
- Chẳng hay lục vị có điều chi dạy bảo?
Thất Bổng Cái nóng nảy xua tay:
- Dạy bảo cái cốc khô gì! Ngươi cứ ngồi xuống cho bọn lão phu hỏi vài câu!
Đại Giác thiền sư, Phương trượng của chùa Thiếu Lâm cũng hiền hòa bảo:
- Nữ thí chủ cứ việc an tọa! Đây không phải là chốn để thủ lễ!
Tống Thụy vái tạ rồi khép nép ngồi xuống. Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường nhăn mặt hỏi ngay:
- Này Tống Thụy nha đầu! Phải chăng cái gã áo xanh đã đoạt Thánh chỉ là sư huynh của ngươi?
Tống Thụy ngượng ngùng gật đầu:
- Bẩm phải! Nhưng tiểu nữ chỉ nhận ra khi Hàn sư huynh thi triển khinh công.
Thất Bổng Cái đắc ý vỗ đùi bảo năm người kia:
- Ngũ vị thấy chưa, lão phu đoán việc nào có sai! Chỉ mình y mới dám vì võ lâm mà chuyện động trời như thế.
Các Chưởng môn nhân gật gù khen ngợi, tán dương dũng khí và công lao của chàng trai trẻ. Nếu chàng không liều lĩnh cướp Thánh chỉ chẳng ai dám tiến vào Độc Nha sơn, để mặc cho Nam - Bắc Thiên Tôn thu nhặt linh kỳ.
Vân Thiên Tử luôn áy náy vì để mất “Diêm Vương quỷ kỳ” nên càng tri ân Tử Khuê. Ông nghiêm nghị nói:
- Không biết Vu Diệp hiền diệt con cái nhà ai mà hành vi lại chính nghĩa thế nhỉ? Sau này Hội đồng Võ lâm phải tuyên dương công trạng của y trước giang hồ để song thân của y được vui lòng.
Thiên Sư giáo chủ vừa mấp môi định khai ra thì bị Thất Bổng Cái cướp lời. Lão ăn mày già hỏi Tống Thụy:
- Tống diệt nữ! Con chim mạt cắt đã cướp Thánh chỉ lúc nãy có phải là của Trung Thiên Tôn hay không?
Suy đoán này của Thạch Kính Tường chẳng phải là vô căn cứ. Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh vốn có thói quen nuôi chim ưng.
Đã lâu không quay lại Tung Sơn nên Tống Thụy chẳng thể khẳng định được. Nàng bâng khuâng đáp:
- Bẩm Thạch bang chủ! Lúc tiểu nữ rời núi thì gia sư vẫn chưa tìm ra con chim ưng nào khác để thay cho con đã chết.
Thất Lâm Tử, Chưởng môn phái Hoa Sơn, thất vọng thở dài:
- Phải chi Trần lão thí chủ di giá đến đây thì mới mong vãn hồi được cục diện này.
Thất Bổng Cái gật gù tán thành rồi hỏi tiếp Tống Thụy về việc Thiếu cốc chủ Xoa Lạp cốc Nhạc Cuồng Loạn uy hϊếp Tống gia ra sao. Câu chuyện của họ khá dài dòng nên chúng ta sẽ quay lại với Quách Tử Khuê xem thế nào.
Nhắc lại, Tử Khuê cùng Thanh Chân nhảy lên cửa động nhỏ ở mạn Tây Bắc Độc Nha sơn để tránh sự truy đuổi của Song Tôn.
Chẳng riêng Nam - Bắc Thiên Tôn mà tất cả mọi người đều không nghĩ đến việc do thám cái hang ấy. Lý do là vì nó quá nhỏ hẹp, bề ngang chưa đầy một sái tay, trong khi sải cánh của đại ưng rộng gần đến hai trượng. Hơn nữa, cửa hang lại có vài dây leo buông mành và một bụi cỏ rám héo úa nên trông càng nhỏ hẹp.
Sau nữa khắc nghỉ ngơi, Tử Khuê và Thanh Chân thận trọng tiến vào trong hang. Nhưng chỉ được bốn năm trượng thì trước mặt họ hiện ra một cái giếng sâu hun hút, đường kính độ gần trượng. Và đấy cũng là chỗ tận cùng của thạch động.
Tử Khuê mỉm cười ngao ngán vì cái vận mệnh đen đủi dai dẳng theo bám mình. Chàng nghĩ đến chuyện nào thì y như rằng nó sẽ xảy ra.
Tử Khuê quăng một cục đá to bằng nắm tay xuống giếng và lắng tai nghe ngóng. Thật lâu sau, những tiếng va chạm lọc cọc của viên đá mới im bặt. Điều ấy có nghĩa là cái lỗ đen ngòm này có độ dốc song lại sâu khủng khϊếp.
Dưới ánh lửa chập chờn của hỏa tập, Thanh Chân nhận ra vẻ thất vọng của Tử Khuê liền vui vẻ bảo:
- Đây đâu phải lỗi của đại ca. Tại con chim mắc dịch làm rơi mấy sợi lông nên chúng ta mới bị mắc lừa.
Tử Khuê nghe lòng được an ủi, thôi không ngượng ngùng chua chát nữa.
Sực nhớ đến đạo Thánh chỉ trong ngực áo, chàng liền lấy ra ném ngay xuống giếng sâu.
Hai người lần ra ngoài, ngồi cạnh xuống cửa hang mà ăn uống, thỉnh thoảng vạch bụi cỏ xác xơ, ngó xuống dưới đất. Họ chờ cơ hội vắng người là nhảy xuống đào tẩu ngay.
Khổ thay, quần hào cứ lần lượt kéo vào, nói cười vui vẻ như là đi xem hội vậy. Qua câu chuyện của họ, Tử Khuê biết rằng đường độc đạo đã được gia cố bằng cách cắm hàng loạt những cành cây theo dọc hai bên, đồng thời còn có một sợi dây chão lớn căng song song nữa. Do đó, ngay cả những kẻ kém khinh công nhất cũng có thể qua được.
Nhưng đầu đường bên trong đã bị hai bang Bích Huyết bang, Chiết Mai bang trấn giữ. Họ không cấm vào nhưng lại tra xét gắt gao những kẻ đi ra để tìm “Diêm Vương quỷ kỳ”. Nhân số ở chốt ấy đông đến hàng trăm.
Nghe vậy, Tử Khuê biết rằng không thể nào đào tẩu ngay lúc này. Chàng suy nghĩ một hồi lâu rồi bảo Thanh Chân:
- Chắc Chân muội cũng đã hiểu được hoàn cảnh hiện nay của chúng ta!
Mối thù với Quân Sơn chân nhân ta có thể tạm gác lại, chờ lúc lão ra khỏi Độc Nha sơn. Nhưng ta phải có trách nhiệm phải báo cho Đại Giác thiền sư biết dã tâm của gã phản đồ Lã Hoa Dương. Vì vậy, Chân muội cứ ngồi yên trên này, để một mình ta xuống dưới. Khi cục diện náo loạn, xảy ra hỗn chiến, ta sẽ quay lại rồi cùng nàng thoát đi.
Sắc diện của Trác Thanh Chân u ám hẳn đi. Nàng trầm ngâm đáp:
- Đại ca tính thế cũng phải, tiểu muội xin tuân mệnh. Tiểu muội cũng hiểu rằng chúng ta cùng đồng hành sẽ rất nguy hiểm, dễ bị phe đối phương nhận ra, ngay cả trong lúc hỗn loạn hoặc đã ra đến chân núi Ngũ Nhũ. Cho nên, nếu có biến cố gì thì tiểu muội sẽ về thẳng Quách gia trang ở Hứa Xương mà đợi chàng.
Tử Khuê ngạc nhiên hỏi:
- Sao nàng biết nhà ta ở Hứa Xương?
Thanh Chân mỉm cười tinh quái:
- Nguyệt lão đã chỉ giáo thϊếp việc ấy. Con dâu lẽ nào lại không biết nhà mẹ chồng ở đâu.
Tử Khuê vô cùng hoang mang, bực bội. Chàng nghiêm nghị hỏi:
- Thanh Chân! Phải chăng nàng biết trước ta không phải là Bàng Nguyên Hối?
Thanh Chân đỏ mặt gật đầu khiến Tử Khuê càng thêm tức tối vì bị lừa dối. Chàng chua chát bảo:
- Nàng đã là tình nhân của Bàng Nguyên Hối thì đâu thể làm vợ ta được.
Thanh Chân lườm chàng và cười khúch khích đáp:
- Làm gì có việc ấy! Gã họ Bàng mò vào Lôi Đình thần cung để ăn cắp “Hắc Ngọc tiên đào”, kỳ trân của võ lâm, bị lạc vào “Mê Hồn trận” nằm chờ chết. May mà thϊếp tình cờ đến đấy, cứu y ra khỏi trận đồ. Sau này, Thần cung phát hiện mất bảo vật, liền cho điều tra quanh vùng, biết được sự hiện diện của Thiết Thủ Thần Tiêu. Họ truy sát và đánh trọng thương Nguyên Hối nhưng không bắt được. Một năm sau, thϊếp quay lại hái quả thứ hai thì bị lộ. Lúc ấy họ mới biết Bàng Nguyên Hối vô tội. Tóm lại, thϊếp và gã ta chẳng có ân tình gì cả.
Tử Khuê tỉnh ngộ song vẫn còn thắc mắc, chàng cau mày hỏi:
- Vậy sao nàng lại đi tìm ta?
Thanh Chân thẹn thùng kể:
- Do tội ăn trộm tiên đào mà thϊếp bị giam cầm trong thạch lao của Lôi Đình thần cung suốt hơn một năm. Đêm rằng tháng bảy vừa rồi, Nguyệt lão giáng mộng, bảo rằng thϊếp có duyên tiền định với tướng công. Ông ta kể rõ lai lịch chàng, chỉ vẽ đường đi nước bước để tìm kiếm. Thϊếp giật mình tỉnh dậy thì thấy cửa ngục đã mở toang nên tinh rằng thật và làm theo lời Nguyệt lão.
Đôi mắt huyền trong vắt của Thanh Chân không hề có chút gì giả dối khiến Tử Khuê phải nghi ngờ. Chàng rầu rĩ tự nhủ:
- Phải chăng do số ta xui xẻo tận mạng nên trong tình duyên cũng gặp cảnh éo le? Kẻ đa thê nào có sung sướиɠ gì cho cam. Nhưng số phận đã thế thì ta còn phiền muộn làm chi nữa.
Tử Khuê ăn nốt cái bánh bao, uống ngụm nước rồi chia cho nàng một sấp ngân phiếu để phòng thân. Thanh Chân cầm lấy song ánh mắt lộ vẻ ngượng ngùng.
Hai người đều mang theo tay nải nên giờ đây Tử Khuê có thể thay một bộ võ phục khác. Chàng chọn màu đen để thân hình trông có vẻ gầy hơn cái gã đã đoạt Thánh chỉ. Chàng còn cẩn thận xoa ít bụi bẩn lên mặt, cố che bớt chân diện mục. Lộ mặt thật là điều rất nguy hiểm, song lúc này chàng chẳng còn cách nào khác. Cả hai chiếc mặt nạ đã được sử dụng, phải phá hủy để xóa mọi dấu vết liên quan đến việc cướp Thánh chỉ.
Chờ Tử Khuê thay y phục xong, Thanh Chân bùi ngùi nói:
- Tướng công! Thϊếp về làm vợ chàng mà không có đến nữa phân bạc làm của hồi môn, lòng vô cùng hổ thẹn...
Tử Khuê nghe lòng bất nhẫn khi thấy gương mặt thiên thần kia u ám, héo úa tựa chiều Đông, liền đưa tay bịt miệng nàng rồi kéo vào lòng an ủi:
- Chân muội đừng nghĩ quẩn! Nhan sắc tiên nga và tấm lòng chân tình của nàng chính là của hồi môn quý nhất thế gian.
Thanh Chân sung sướиɠ áp mặt vào l*иg ngực rộng của chàng một lúc lâu. Sau đó, nàng lùi khỏi vòng tay chàng và vui vẻ bảo:
- Tuy lòng dạ tướng công rộng rãi khoáng đạt thế nhưng thϊếp vẫn muốn tặng chàng một vật.
Thanh Chân mở túi hành lý nhỏ, lấy ra một quyển sách mỏng, bìa da dê đưa cho Tử Khuê. Bốn chữ “Lôi Đình Bí Lục” bên ngoài đã khiến Tử Khuê choáng váng, bồi hồi.
Từ ngày nhận lời khiêu chiến của Nhạc Cuồng Loạn, lòng Tử Khuê canh cánh không yên. Chàng đã khổ công rèn luyện kiếm pháp để dành phần thắng.
Nhưng Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh nghe được tin ấy, đã gởi thư khuyên chàng không nên đi phó ước. Ông đã từng giao đấu với Cung chủ Lôi Đình thần cung, biết rằng “Lôi Đình kiếm pháp” quỷ dị và oai mãnh tuyệt luân, đáng gọi là tuyệt học đứng đầu tà phái. Nay, Nhạc Cuồng Loạn lại sở hữu đến sáu mươi năm công lực, cao hơn cả Trác Ngạn Chi thưở trước, thì Tử Khuê sẽ khó mà địch lại. Dẫu chàng có muốn dùng “Tảo Thiên kiếm pháp” mà đổi mạng thì cũng thiệt thòi vì lớp cương khí hộ thân của đối phương rất dày.
Tử Khuê đã hứa với nghĩa phụ và những người thân rằng sẽ bội ước, khai tử Hàn Thiếu Lăng, nhưng trong thâm tâm, chàng vô cùng đau đớn, hổ thẹn.
Hơn nữa, chắc gì gã họ Nhạc chịu để yên. Một là gã tưới máu giang hồ, buộc chàng phải xuất hiện. Hai là tìm đến La Sơn quấy nhiễu Trung Thiên Tôn.
Giờ đây, khi có quyển bí kíp này, hiểu được sở học của đối phương thì chàng chẳng còn phải sợ hãi nữa. Tử Khuê không háo danh song cũng không chịu được cảnh rùa rụt cổ, để mặc người khác vì mình mà mang họa.
Gánh nặng ngàn cân trong lòng được trút bỏ, Tử Khuê hoan hỉ phi thường, bất giác tri ân người vợ bất đắc dĩ kia. Chàng xúc động, ôm lấy Thanh Chân mà thủ thỉ:
- Cảm tạ Châm muội! Tặng vật này của nàng quý giá hơn tất cả châu báu trên thế gian.
Thanh Chân mỉm cười sung sướиɠ, ánh mắt long lanh, dào dạt ân tình, trông cực kỳ đáng yêu và xinh đẹp. Tử Khuê bồi hồi cúi xuống hôn lên gò má mịn màng với cả tấm lòng thương mến.
Hai chữ ân tình thường đi đôi với nhau. Do bản năng mà con người luôn yêu mến người đã giúp đỡ mình. Nay, nhờ Thanh Chân nên Tử Khuê có thể ngẩng cao đầu sống trọn kiếp đại trượng phu thì bảo sao chàng không thương nàng cho được. Hơn nữa, nàng lại rất kiều diễm và chân thật.
Lát sau, chờ khi phía dưới không người, Tử Khuê nhanh nhẹn nhảy xuống đất, ung dung đi về hướng mạn Bắc Độc Nha sơn.
Chàng đã để mũ và áo lông cừu lại động khẩu nên chàng không giống cái gã đã đoạt Thánh chỉ. Thật ra, Tử Khuê đã gầy hơn trước vì mẫu thân chàng muốn thế. Sau khi nhận được thư của Trung Thiên Tôn, Kỹ nương vô cùng lo sợ, liền bắt con trai ăn uống kiêng khẹm, chẳng chút dầu mỡ, ngày ngày uống thuốc đắng nghét. Bà mong Tử Khuê gầy đi thật nhanh, để chẳng có gì giống gã Hàn Thiếu Lăng to béo kia nữa.
Sức mạnh của tình mẫu tử quả là mãnh liệt, rốt cuộc, chàng đã sụt đi hơn chục cân. Tất nhiên, phải kể đến công lao của Dịch Tái Vân, những đêm ái ân say đắm cuồng nhiệt đã khiến Tử Khuê chẳng thể nào không giảm trọng.
Đi được vài bước thì Tử Khuê chợt nhìn thấy chiếc nón rộng vành cũ kỹ nằm lây lất. Chàng mừng rỡ nhặt lên, đội lên đầu sau khi nối lại dây quai bị đứt. Có lẽ, trong lúc vội vã tiến vào hậu sơn, kẻ nào đó đã quẳng chiếc nón chết tiệt, đứt quai không đúng lúc.
Tuy bị bắt buộc phải lộ mặt thật, song Tử Khuê vẫn nom nớp lo sợ. Chiếc nón này sẽ giúp chàng che khuất nửa trên dung mạo. Bang chúng hai bang Chiết Mai và Bích Huyết vẫn ráo riết truy lùng hai kẻ cướp Thánh chỉ, song song vớii việc truy tìm linh kỳ.
Trên đường đi, Tử Khuê đã gặp vài tên đệ tử của phe đối phương. Nhưng chúng đã không hề nhận ra cái gã áo đen mép không râu kia là kẻ mình đang săn đuổi.
Tử Khuê vào đến nơi hội tụ của hai phe chính tà, chưa kịp gặp hồi đồng võ lâm thì xảy ra quái sự.
Phía Bắc Độc Nha sơn, bên kia bờ vực thẳm là ngọn núi Kính Sơn cao vυ"t, đầy tùng bách rậm rạp. Nhưng lúc này, mọi người đều quay lưng về hướng ấy, chỉ chú ý đến những hang động trên núi Độc Nha sơn. Do đó chẳng ai phát hiện ra một cánh chim to lớn đang từ trên núi Kính Sơn lao thẳng xuống.
Người ta chỉ nhận ra khi Trung Nguyên Thần Tiễn Phan Nguyên Kết ré lên đau đớn vì phải cắm ngập mũi tiễn đao. Sau đó, con thần ưng bốc lên cao, lượn lờ trên đầu quần hùng. Toàn trường nhốn nháo, ngẩng cao đầu, cố nhìn cho rõ con người nhỏ bé đang chiễm chệ trên lưng chim ưng.
Té ra Phi Điểu Thần Ma Lục Doãn Ngôn chưa chết. Lão khỉ già ấy còn cười khanh khách, nói vọng xuống:
- Lão phu đã tận số đâu mà chư vị đồng đạo võ lâm đến điếu sớm thế?
Rồi lão đổi giọng, chửi rủa Trung Nguyên Thần Tiễn um sùm:
- Này lão họ Phan khốn khϊếp kia. Lão phu nào phải kẻ thù cướp vợ, gϊếŧ cha mà ngươi nỡ giương cung bắn ta suýt chết? Đã thế thì lão phu sẽ bay đến Hàm Dương bắt vợ con ngươi, lột quần áo mang ra giữa chợ mà phơi. Ai đến ngắm con gái ngươi thì lão phu thu hai lượng bạc, còn ai dám ngắm nhìn mụ vợ già của ngươi thì được thưởng một lượng. Vị chi lão phu cũng còn lời một nửa.
Cách báo thù ngộ nghĩnh của Phi Điểu Thần Ma đã khiến quần hùng phì cười. Nhất là khi Hồ Đồ Thần Thương hý hửng lên tiếng:
- Lão đại thúc sai rồi! Tiểu diệt sẵn sàng nhìn Phan phu nhân năm lần, sau đó ngắm tiểu thư hai lần, là vẫn còn dư một lượng để uống rượu.
Hàng ngàn gã ma men nghe nhắc đến uống rượu thì hai mắt sáng lên, ngoác miệng cười hô hố, khen ngợi tài làm toán của Khổng Đam.
Trung Nguyên Thần Tiễn vô cùng nhục nhã, quên cả nỗi đau đớn của vết thương, thét lên thóa mạ:
- Tổ cha lão họ Lục. Lão có giỏi thì xuống đây.
Lục Doãn Ngôn cười khanh khách:
- Cảm tạ lời mời mọc của ngươi. Tiếc rằng lão phu phải nhanh chân đến Hàm Dương kẻo trời tối mất.
Phan Nguyên Kết vừa lo vừa sợ, định nói gì đấy thì bị Võ lâm Minh chủ Âu Dương Mẫn cướp lời:
- Lục lão huynh! Tiểu đệ xin mua “Diêm Vương quỷ kỳ” với giá ngàn lượng vàng.
Nam - Bắc Thiên Tôn không hề xem vào, định bụng sẽ cướp lấy linh kỳ từ tay Âu Dương Mẫn nếu Lục Doãn Ngôn chịu bán cho hắn ta.
Nào ngờ, Phi Điểu Thần Ma chẳng tham vàng bạc, cười đáp:
- Lão phu sắp xuống lỗ, cần quái gì nhiều vàng đến thế. Lão phu cướp linh kỳ vì muốn đùa giỡn với lão mũi trâu Vân Thiên Tử. Nay, cây cờ chết tiệc chỉ mang lại phiền phức, lão phu sẽ hoàn lại cho Hội đồng Võ lâm.
Dứt lời, Lục Doãn Ngôn phóng thẳng “Diêm Vương quỷ kỳ” vào vị trí của sáu vị Chưởng môn phái Bạch đạo. Vân Thiên Tử vui mừng khôn xiết, tung mình chụp lấy.
Phần Phi Điểu Thần Ma thì cười dài và thúc đại ưng bay đi mất dạng. Lão ta vừa khuất bóng sau ngọn Kính Sơn thì ở đây lục phái đã bị bọn tà ma vây chặt.
Quân số phe Bạch đạo hiện diện ở Độc Nha sơn chỉ độ hai trăm, chưa bằng một nửa đối phương. Tuy nhiên, Thiếu Lâm không xa chốn này và trong chốc lát Đại Giác thiền sư có thể gọi hàng trăm tăng lữ đến tiếp viện. Vấn đề ở chỗ ai là người đủ sức phá vây, vượt qua được lực lượng đang trấn giữ đầu trong đường độc đạo.
Nhưng hiện tại, sáu phái chưa cần đến viện binh vì đang có trong tay một vũ khí rất lợi hai là sự toàn vẹn của “Diêm Vương quỷ kỳ”.
Chính vì thế mà Vân Thiên Tử khẳng khái nói với Bắc Thiên Tôn:
- Hội đồng Võ lâm sẽ tạm thời bảo quản linh kỳ. Phùng tiền bối cứ việc thượng kinh xin một đạo Thánh chỉ khác. Lúc ấy, bần đạo sẽ cung kính dâng cờ.
Phùng Thịnh Đoan cười nhạt gằn giọng:
- Vân Thiên Tử! Năm xưa ngươi vẫn thường gọi bần đạo là sư thúc, sao giờ lại làm khó nhau như vậy? Ngươi cũng biết rõ bần đạo đã được ban Thánh chỉ rồi cơ mà? Chẳng qua tại con chim cắt và cái gã điên chết toi kia mà thôi.
Bang chủ Cái bang Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường cười khanh khách đỡ lời Vân Thiên Tử:
- Nếu Phùng tiên trưởng ngại đường xa mỏi gối thì cứ tập trung bắt cho được cái gã điên ấy mà thu hồi Thánh chỉ. Gã ta đâu có cánh để bay khỏi chốn này.
Nào phải Bắc Thiên Tôn không muốn thế, nãy giờ lão đã lệnh cho mấy trăm đệ tử ráo riết truy lùng mà chẳng thấy đôi trai gái quái dị ấy ở đâu cả. Họ Phùng bực bội nói:
- Bần đạo chẳng hiểu vì sao bọn tiểu bối các người chẳng nể mặt tiền nhân, một mực cản đường bần đạo. Đã thế thì bần đạo cũng chẳng nể nang gì nữa, quyết dùng võ lực để đoạt linh kỳ. Nếu ngươi hủy cờ, bần đạo sẽ thượng kinh tâu với thiên tử rằng sáu phái khi quân kháng chỉ. Lúc ấy thì hậu quả thế nào chắc các ngươi đã rõ.
Lời hăm dọa kia rất có uy lực vì đương kim thánh thượng là người nhu nhược, u mê, dễ dàng bị tác động bởi những lời xàm tấu. Đấy là chưa kể đến việc sáu phái sẽ chết như rạ trong cuộc chiến này. Chẳng lẽ họ phải hy sinh quá sớm bởi một chút nghi vấn của Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh?
Vân Thiên Tử do dự bất quyết, quay sang bàn bạc với năm vị Chưởng môn nhân kia. Những người ấy cũng cùng tâm trạng như Vân Thiên Tử nên Hội đồng Võ lâm sắp sửa đi đến quyết định nhượng bộ. Bất ngờ Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy bước đến nghiêm trang bảo:
- Nay Hội đồng Võ lâm đã không có ý bảo vệ “Diêm Vương quỷ kỳ” thì xin hãy trả lại cho tiểu nữ.
Nàng có quyền nói như thế vì là người đã trao cờ báu lại cho họ.
Lục vị Chưởng môn nhân hổ thẹn đến mức chẳng nói nên lời. Vân Thiên Tử thở dài nhẫn nhục, run rẫy trả linh kỳ lại cho Tống Thụy. Ông chưa kịp nói vài câu tạ lỗi thì Thiết Đảm Hồng Nhan đã rút gươm chém rách bươm lá cờ lụa.
Toàn trường kinh hãi ồ lên tiếc rẻ. Nhưng Nam Thiên Tôn lại ngửa cổ cười dài:
- Tống nha đầu quả chẳng hổ danh Thiết Đảm. Song ngươi hành động vô ích khi phá hủy Quỷ kỳ. Uy lực của cờ báu nằm trong cán cờ chứ không phải là vuông lụa kia. Và cán cờ lại được làm huyền thiết pha đồng không có vũ khí nào chém gãy nổi.
Tống Thụy không tin vung kiếm chặt thử cái khúc ống thép đen trùi trũi.
Quả nhiên, lưỡi kiếm của nàng dội ra và cán cờ chẳng hề suy xuyển.
Nàng chột dạ nhủ thầm:
- Vực thẩm quá xa và dẫu ta có ném cán cờ xuống đấy thì trước sau Song Tôn cũng lấy được. Ta phải tìm cách khác mới xong.
Tống Thụy cười khẩy, cao giọng:
- Ít nhất thì ta cũng tạm thời ngăn cản được việc ai đó sẽ dùng linh kỳ khống chế những người đang hiện diện chốn này.
Quả đúng là Song Tôn và Âu Dương Mẫn cùng có âm mưu ấy. Cả hai đều biết câu thần chú điều khiển “Diêm Vương quỷ kỳ” và sẽ không bỏ qua cơ hội sử dụng ngay, để toàn thành bá nghiệp trong phút chốc.
Nay lá cờ lụa tan nát, chưa thay lá mới thì Quỷ kỳ bị vô hiệu hóa, không đem lại ưu thế tất thời cho người đoạt được. Tống Thụy có thể an ủi rằng mình đã làm hết sức, vì dẫu cho cờ báu có lọt vào tay tà ma thì đó cũng là kiếp vận của võ lâm. Nàng là Thiết Đảm Hồng Nhan chứ không phải “Thiết Đảm Hoàng Ngưu”, nên hiểu rằng không đủ sức mang Quỷ kỳ đào thoát khỏi nơi “thiên la địa võng” này.
Tống Thụy quyết dùng bảo vật để gầy cuộc tương sát giữa hai phe địch.
Song nàng còn phân vân, không hiểu nên trao Quỷ kỳ cho phe nào để có hậu hỏa nhỏ nhất? Cuối cùng, Thiết Đảm Hồng Nhan nghiên về phía Nam - Bắc Thiên Tôn. Nguyên nhân vì họ đã quá già, có tác quai tác quái cũng chẳng được bao năm. Hơn nữa, Âu Dương Mẫn là hóa thân của tên ác ma Huyết Mai hội chủ, nàng khó mà lường hết hậu quả.
Trong lúc nàng suy nghĩ, Song Tôn và Âu Dương Mẫn đều lên tiếng phủ dụ, mong nàng trao cán cờ Quỷ kỳ cho mình. Kẻ thì nhắc đến mối quan hệ giữa Võ lâm Tam tôn, kẻ dùng vàng bạc. Tống Thụy đang đứng gần sáu vị Chưởng môn nhân Bạch đạo nên chẳng ai dám đường đột tấn công nàng mà cướp báu vật.
Không người nào để ý đến việc Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương đang chậm rãi tiến đến gần Thiết Đảm Hồng Nhan. Gã là bạn đồng hành với nàng mấy hôm nay nên đến để tương trợ, cố vấn là phải đạo.
Nhưng khi họ Lã sắp tiếp cận Tống Thụy thì từ trên ngọn cây du núi cổ thụ cách hiện trường mười trượng, phía sau lực lượng Bạch đạo, có tiếng người cấp bách vọng xuống:
- Tống sư muội hãy tĩnh tâm, gã Lã Hoa Dương là nội gián của phe địch.
Gã đã vì nữ sắc mà nhận lời trộm Dịch Cân Kinh.
Toàn trường chấn động trước lời tố cáo ấy, nhất là Lã Hoa Dương, và các tăng lữ Thiếu Lâm tự. Họ Lã chết điếng người, chưa kịp chửi rủa hay biện bạch kẻ đã lật tẩy mình thì Đại Giác thiền sư đã nghiêm trang ra lệnh:
- Thập Bát La Hán! Mau bắt gã phản đồ!
Ông đã nhận ra giọng nói của Vu Diệp chân nhân, hay Hằng Thiếu Lăng, kẻ vừa là sư diệt của Cửu Hoa Thánh Y, vừa là nghĩa tử của Trung Thiên Tôn. Hơn nữa, chàng trai ấy đã từng liều mình vì chính nghĩa thì không có lý do gì để vu khống Lã Hoa Dương.
Việc Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ bị Âu Dương Mẫn dùng nữ sắc mê hoặc đã là cái gương trước mắt. Mua chuộc đám nhân tài Bạch đạo trẻ tuổi là thủ đoạn mà phe Hắc đạo vẫn thường sử dụng trong suốt ngàn năm của võ lâm Trung Nguyên.
Lã Hoa Dương không ngờ sư bá mình lại tin vào lời tố cáo của kẻ lạ mặt và có thái độ rất quyết liệt. Muốn chạy cũng không được, gã liền quỳ xuống khóc lóc kêu oan.
Đại Nghiêm thiền sư, thủ tọa của La Hán đường chính là sư phụ của Lã Hoa Dương. Ông đau lòng và tủi nhục khôn xiết, lạnh lùng điểm huyệt đồ đệ, phong tỏa chân khí rồi cho trói lại. Trong hai mươi năm dạy dỗ Lã Hoa Dương, thiền sư phát hiện rằng gã là kẻ rất háo sắc nên đã nhiều lần nhắc nhở, giáo huấn. Ông không cấm gã vào kỹ viện và chỉ yêu cầu gã đừng đυ.ng đến bọn con gái nhà lành, gây tai tiếng cho chùa Thiếu Lâm. Nào ngờ, giờ đây gã lại vì nữ sắc mà cam tâm phản lại sư môn, làm ô nhục tông môn.
Kể lể thỉ lâu nhưng thật ra việc bắt trói tên phản đồ xảy ra rất chóng vánh. Và ngay sau đó, sự cố ấy bị lãng quên vì câu nói thứ hai của gã hắc y bịt mặt trên ngọn cây. Người ta đã đoán ra gã là Cầu Nhiêm đại hiệp Hàn Thiếu Lăng, kẻ duy nhất gọi Thiết Đảm Hồng Nhan là sư muội.
- Tống sư muội hãy bán “Diêm Vương quỷ kỳ” cho Âu Dương Minh chủ lấy vạn lượng vàng. Bắc Thiên Tôn đã gả con gái cho một vương tử Mông Cổ nên không thể để báu vật lọt vào tay lão ta được.
Phùng Thịnh Đoan tái xanh mặt mũi khi bí mật chết người của lão bị vạch trần trước mặt thiên hạ. Bắc Thiên Tôn cố định thần quát mắng:
- Phế ngôn! Bần đạo quyết không tha cho kẻ ngậm máu phun người!
Nhưng lão ta chẳng có thời gian làm việc ấy vì Tống Thụy đã bất ngờ phóng mạnh đoạn cán cờ về phía Âu Dương Mẫn ở hướng Tây và miệng nói lớn:
- Giao hàng trước, lấy tiền sau!
Âu Dương Mẫn vui mừng khôn xiết, thò tay chụp lấy bảo vật. Sắc diện lão cực kỳ nghiêm trọng vì lão hiểu rằng Nam - Bắc Thiên Tôn sẽ không để yên.
Quả nhiên, Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến ngửa cổ hú vang, báo hiệu cho Trịnh Bá Nghiêm và Dương Tố Vy chặn đường rút lui của Âu Dương Mẫn. Sau đó, Song Tôn cùng Quân Sơn chân nhân lao đến tấn công.
Ở sa trường thì quân đi trước, tướng theo sau, nhưng chốn giang hồ thì ngược lại, Bắc Thiên Tôn Phùng Thịnh Đoan chọn Âu Dương Mẫn, Nam Thiên Tôn đối đầu với Thiếu chủ Xoa Lạp cốc Nhạc Cuồng Loạn, còn Quân Sơn chân nhân so tài với một lão nhân tóc bạc, mặt vàng, có lẽ là hộ pháp của Xoa Lạp cốc.
Phần Thần Đao bảo chủ Tần Minh Viên lãnh nhiệm vụ phá vây, mở đường cho toàn quân thoát ra. Lão và đám đệ tử tinh nhuệ dưới trướng phóng tay chém gϊếŧ, nhanh chóng đẩy lùi phe đối phương. Những thanh đao Nhật Bản dài nặng và sắc bén đã chiếm ưu thế hoàn toàn trước đám đao kiếm tầm thường. Hơn nữa, để tử hai bang Chiết Mai, Bích Huyết rất ô hợp, được tuyển mộ vội vả nên không thể sánh với những gia đinh Thần Đao bảo, kẻ đã nhiều năm khổ luyện đao pháp thượng thừa.
Thực ra, Bích Huyết bang cũng có một số nhân thủ xuất xứ từ Thần Đao đường, tất bọn đệ tử của Thất Hoàn Đao Hướng Vụ Quan. Tuy nhiên, đám ấy đang cùng Hướng lão trấn giữ đầu đường độc đạo, tạm thời không tham chiến.
Tần Minh Viên lại thần dũng tuyệt luân, một mình đương cự với hai Bang chủ Chiết Mai, Bích Huyết mà vẫn chiếm thượng phong. Cây kim thương của Trịnh Bá Nghiêm thì còn kha khá chứ trường kiếm của Dương Tố Vy thì không chịu nổi đường đao vũ bão của họ Tần. Hộ khẩu tay hữu của nàng đã rướm máu sau những lần vũ khí chạm nhau.
Tiếng thép rền rĩ, tiếng kêu rên đau đớn vang vọng khắp nơi khiến lòng kẻ tu hành phải xót xa. Nhưng cũng như lần trước ở Kỹ gia trang, sáu phái Bạch đạo lại khoanh tay đứng nhìn cảnh máu chảy đầu rơi. Người tự xưng là chính phái thường thụ động trước việc tiêu diệt cái ác. Đấy là nguyên nhân sâu sa khiến giang hồ luôn nổi sóng, thanh bình chẳng được mấy năm.
Thấy phe địch tiến nhanh như sóng dữ, Lã Bất Thành và Hồ Đồ Thần Thương vội đi vòng ra hướng tây, hỗ trợ phe nhà. Kích pháp và thương pháp của hai gã này đều rất lợi hại nên đã cầm chân được Thần Đao bảo chủ.
Tần Minh Viên giận dữ múa tít bảo đao, tả xung hữu đột giữa vòng vây của bốn kẻ hậu sinh, song không sao tiến thêm được bước nào nữa.
Tiền phương là vậy, giờ chúng ta quay lại hậu phương để xem cục diện ra sao. Tất nhiên tình thế ở đây gây cấn và khốc liệt hơn tiền trận bội phần vì tập trung toàn cao thủ lẫy lừng.
Bắc Thiên Tôn Phùng Thịnh Đoan căm hận Âu Dương Mẫn phỗng tay trên bảo vật, nên quyết gϊếŧ chết cho được đối phương mà đoạt lại Quỷ kỳ. Lão tự tin có thể đắc thủ trong vòng trăm chiêu bằng lối đánh vũ bảo, cả vυ" lấp miệng em. Sau hơn chục chiêu thăm dò, Phùng lão đã dồn tám phần công lực vào cây “Bạch Vân ngân kích” xuất chiêu “Vân Vụ Cuồng Phi”. Lão khổ luyện kích pháp hơn bảy mươi năm, đạt mức đại thành, nên cây sắt mạ bạc năng ba mươi cân trở thành nhẹ như làm bằng gỗ tùng vậy. Đường kích vun vυ"t xé gió, kích ảnh mịt mờ tựa mây mù, ào ạt thổi về phía kẻ địch.
Nhưng Âu Dương Mẫn là truyền nhân tình cờ của Tam Tuyệt Thần Quân Đồng Nhật Tú, kiếm pháp và công phu “Thiết Sa chưởng” đều lão luyện, nên chẳng thể dễ bị khuất phục. Lão vung gương đánh chiêu “Vạn Hại Vô Xâm”, kiếm ảnh loang loang dưới ánh dương quang mùa Đông nhàn nhạt.
Đường kiếm của Âu Dương Mẫn vẫn nhanh hơn đường kích của Bắc Thiên Tôn một chút. Lý do là kiếm vốn nhẹ hơn, ngắn hơn kích, và Âu Dương Mẫn lại có đến gần hoa giáp chân khí, nhờ thụ dụng kỳ trân dưới vực sâu.
Những nhát gươm của lão nhanh lẹ phi thường, đón đỡ được hầu hết đòn thế của Bắc Thiên Tôn. Đồng thời, bàn tay tả rắn như thép cũng góp phần không nhỏ trong việc phòng thủ. Nó ung dung đánh bạt mũi kích sắc bén mà chẳng hề hấn gì. Hai mươi năm rèn luyện “Thiết Sa chưởng” đã tạo nên kỳ tích ấy.
Đương nhiên là Âu Dương Mẫn phải thoái lùi vài bước trước đòn tấn công mãnh liệt của kẻ có công lực thâm hậu hơn. Nhưng lão đang muốn rút ra ngoài nên việc này hoàn toàn có lợi.
Bắc Thiên Tôn hậm hực dồn thêm chân khí xuất chiêu “Thiên Xà Khát Huyết”, ngân kích hóa thành ngàn bóng ảnh độc xà lay động mềm dịu khác thường của nửa trên ngân kích. Nếu cán kích bằng gỗ như của đám Sơn Đông mãi võ thì chẳng có gì đáng nói. Song ngân kích của Bắc Thiên Tôn bằng thép ròng mà mềm mại đến mức ấy thì mới đáng gọi là chuyện kinh hãi thế tục.
Âu Dương Mẫn thầm chột dạ trước chiêu kích kỳ tuyệt của đối phương, hiểu rằng nếu trực diện đối phó sẽ thiệt thân. Lão nghiến răng đề khí bốc lên cao hai trượng để tránh né rồi gian xảo sa xuống để tấn công.
Kết quả của đòn thế ấy thế nào chúng ta cứ tạm gác lại và quay sang trận đấu giữa Nam Thiên Tôn với Nhạc Cuồng Loạn.
Từ Tôn Chiến cũng là tổ sư trong nghề đánh thương, một loại trường binh. Võ lâm thường dùng câu “Nam thương Bắc kích” để xưng tụng Song Tôn. Do đó dù Nhạc Cuồng Loạn có tròn hoa giáp công lực cũng chưa phải là đối thủ của lão bất tử họ Từ tu vi thâm hậu hơn một bậc.
Tuy nhiên, vị Thiếu chủ của Xoa Lạp cốc hơn Âu Dương Mẫn ở công phu “Lôi Đình chưởng pháp”, tuyệt kỹ khắc tinh của mọi loại vũ khí dài. Tầm đả thương của “Phách Không chưởng” là trên dưới một trượng, xa hơn chiều dài của trường thương cộng với cánh tay. Cho nên, Nhạc Cuồng Loạn không bị hạ phong như Âu Dương Mẫn và có thể ngang nhiên cầm cự với Nam Thiên Tôn.
Riêng bản thân pho “Lôi Đình kiếm pháp” cũng là một tuyệt học hãn thế, hùng mạnh tuyệt luân, song không kém phần hiểm ác. Kiếm kình vù vù như sấm vọng, kiếm ảnh mịt mờ, trùng điệp, thấp thoáng những sợi tơ ngoằn ngoèo, mảnh mai nhưng bội phần đáng sợ. Trong thiên hạ, chỉ mình Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh là phá giải được loại kiếm pháp kỳ lạ ấy.
Tuy nhiên, khi so tài với bậc cao thủ lão thành như Nam Thiên Tôn thì “Lôi Đình kiếm pháp” chưa đủ để hóa thành con rồng vàng nhe nanh múa vuốt, chực chờ vồ lấy chú dê non.
Nhạc Cuồng Loạn cắn răng đối phó, đường gươm nhanh tự sao sa, thép chạm thép vang rền chát chúa. Nghe hộ khẩu đau rát, Nhạc Cuồng Loạn tự hiểu sức mình còn kém kẻ địch, và nếu cứ ở ngoài thì sẽ bị thiệt thòi.
Gã mím môi, vỗ liền ba chưởng “Lôi Đình”, đồng thời múa kiếm che thân, xông vào nhập nội. Đánh xa là sở trường của vũ khì dài nên Nam Thiên Tôn chẳng dại gì để đối thủ tiếp cận mình. Lão giảo hoạt đảo bộ lùi chếch sang mé tả để tránh chưởng và giữ khoảng cách cần thiết. Sau đó, Nam Thiên Tôn tràn đến như thác lũ, thương ảnh cuồn cuộn, thương kình xé gió, khí thế cực kỳ hung hãn.
Nhạc Cuồng Loạn chưa giác ngộ kiếm đạo nên khó có thể đối phó với những đòn ngàn cân của cây kim thương nặng trịch. Yếu quyết “tứ lượng bát thiên côn” chẳng phải ai cũng nắm được. Vả lại, yếu quyết ấy sử dụng trong quyền thuật thì dễ nhưng khó khăn trong khi sử dụng vũ khí.
Dù là kẻ kiêu ngạo song Nhạc Cuồng Loạn chẳng dám liều mạng đương đầu với con bão khủng khϊếp ấy. Gã lập tức thi triển một loại bộ pháp ảo diệu, trong chớp mắt đã hoán vị sang tả, thoát khỏi hiểm nguy. Và từ vị trí mới, Nhạc Cuồng Loạn ập vào phản kích, kiếm kình chấn động không gian, sát khí lạnh hơn gió bấc. Gã tinh thông tuyệt học hai nhà Lôi Đình, Xoa Lạp nên chiêu thức bác tạp, biến hóa vô song, khiến Nam Thiên Tôn phải chột dạ, không dám hấp tấp nữa.
Trận chiến giữa Quân Sơn chân nhân và lão mặt vàng của Xoa Lạp cốc cũng ở thế quân bình. Có thể võ công Đường Mai Giản hơn đối phương một bậc, song phép đánh kiếm thuẫn của vị đại hộ pháp Xoa Lạp cốc rất điêu luyện, công thủ vẹn toàn nên họ Đường khó mà thủ thắng ngay được.
Tuy nhiên, số thương vong của đám đệ tử Song Tôn ngày một tăng, chúng chết như rạ trước hai lực lượng kiêu dũng của Thần Đao bảo và Xoa Lạp cốc.
Trận địa đã chuyển dần ra ngoài, vì nhờ sự hỗ trợ của Thập Đại Hộ Vệ Tổng đàn Võ lâm mà Thần Đao bảo chủ đã đẩy lùi được Trịnh Bá Nghiêm.
Mười gã hộ vệ thân tính của Âu Dương Mẫn được đào tạo chu đáo, bản lĩnh rất cao cường. Chúng lại có được sự phối hợp nhịp nhàng, ăn ý nên càng bội phần lợi hại. Do đó, chỉ bốn tên cũng đủ để vây khốn Lã Bất Thành hoặc Hồ Đồ Thần Thương. Hai gã còn lại liên thủ với Tần Minh Viên đánh cho Trịnh Bá Nghiêm và Dương Tố Vy phải lùi dài.
Đau lòng trước sự tổn thất nhân mạng của phe nhà, Nam Thiên Tôn liền nói vang, ra lệnh cho Thất Hoàn Đao đưa quân vào tiếp viện. Hướng Vụ Quan chỉ để lại hai chục tay đao trấn giữ lối ra, còn bao nhiêu đưa vào tham chiến.
Nhờ vậy mà thế trận tạm cân bằng.
Phần phía Nam - Bắc Thiên Tôn thì ra sức quyết thắng, cố đắc thủ càng sớm càng tốt. Phần vì cục diện, phần vì tự ái của kẻ già nua.
Âu Dương Mẫn và Nhạc Cuồng Loạn đều có hoa giáp công lực, võ nghệ siêu phàm, chẳng dễ gì bị khuất phục. Dù thủ nhiều hơn công, song họ vẫn bảo toàn được tính mạng lui dần ra ngoài theo đúng kế hoạch.
Hội đồng Võ lâm cùng hai trăm đệ tử đứng nhìn cuộc chiến khốc liệt mà ngao ngán. Họ bị chấn động bởi bản lĩnh của bọn ma đầu cũng như đám thủ hạ của Thần Đao và Xoa Lạp. Người tu hành luyện võ công chính phái thượng thừa nhưng thiếu thủ đoạn và kinh nghiệm, chẳng thể địch lại những kẻ quen chém gϊếŧ.
Lục vị Chưởng môn nhân hổ thẹn vì thái độ nhu nhược của mình nên chẳng dám thắc mắc khi Hàn Thiếu Lăng không đến vấn an. Chàng trai thần dũng ấy đã cùng Thiết Đảm Hồng Nhan ẩn vào chỗ nào chẳng rõ.
Cuộc hỗn chiến kéo dài đến giữa giờ Tỵ thì trận địa di chuyển đến Tiêu Sơn. Số tử vong của hai bên đã gần hơn trăm. Xác người rải rác khắp nơi, mùi máu tanh bốc lên nồng nặc. Minh chủ Âu Dương Mẫn và Nhạc Cuồng Loạn chỉ bị thương nhẹ, song họ vẫn kiên cường chống cự. Do bị thiệt hại ít hơn nên số cao thủ Xoa Lạp cốc cùng Thần Đao bảo đã xông vào hỗ trợ chủ tướng, khiến Nam - Bắc Thiên Tôn và Quân Sơn chân nhân phải phân tâm không ít.
Câu “gừng càng già càng cay” chỉ đúng trong giới hạn nào đó. Người ở trên tuổi tám mươi thì gân cốt lão hóa, không còn cường kiện như kẻ trẻ trung hơn. Nam - Bắc Thiên Tôn trong thời gian gần đây lại miệt mài với những thân xác nóng bỏng, mỹ miều, tặng vật của Mông Cổ, sức lực có phần giảm sút.
Ngược lại, Nhạc Cuồng Loạn đang tuổi thanh xuân, còn Âu Dương Mẫn mới trên sáu chục mà đã kiêng tửu sắc. Nếu vị Huyết Mai hội chủ mà hiếu sắc thì ả con nuôi Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân khó mà yên thân. Lão chỉ đam mê có hai thứ là danh vọng và tiền bạc.
Âu Dương Mẫn khấp khởi mừng thầm vì chỉ còn cách đường thoát thân mười mấy trượng. Lão và Nhạc Cuồng Loạn sẽ sử dụng đến vũ khí bí mật tối lợi hại của mình để phá vây đào tẩu. Nam - Bắc Thiên Tôn sẽ đuổi theo nên số phận của hai lực lượng Thần Đao và Xoa Lạp cốc sẽ an toàn. Họ mạnh hơn phe đối phương rất nhiều. Với dự hỗ trợ của vài đệ tử kiên dũng, Âu Dương Mẫn ngang nhiên cầm cự với Bắc Thiên Tôn và lùi dần theo bước tiến của tiền quân.
Thất Hoàn Đao và tám mươi học trò đã không cầm chân được Thần Đao bảo và Thập Đại Hộ Vệ.
Lát sau, Âu Dương Mẫn bất ngờ thốt lên:
- Đi thôi!
Rồi lão tung mình nhảy ngược về phía sau, quay mình đào tẩu. Nhạc Cuồng Loạn cũng giáng mạnh một chưởng “Lôi Đình” thần tốc, đẩy lùi Nam Thiên Tôn rồi chạy theo đồng đảng.
Nam - Bắc Thiên Tôn không ngờ đối phương lại bỏ mặc thuộc hạ mà thoát thân, trái với lẽ thường tình. Họ đuổi theo sát rạt, hy vọng hai con mồi bị ngăn lại tại con đường độc đạo. Vị trí này cực kỳ hiểm yếu, lại đang dày đặc cao thủ của Hướng Vụ Quan. Lực lượng phía bên ngoài của Song Tôn đã bị ép đến tận mép vực, chủ yếu là phong tỏa đường ra.
Nào ngờ khi sắp chạm phòng tuyến cuối cùng, Âu Dương Mẫn tung một quả cầu đen kịt, cỡ lớn bằng nắm tay trẻ nhỏ vào giữa hàng ngũ địch. Cái vật tròn tròn ấy phát ra một tiếng nổ kinh thiên động địa và tỏa khói mịt mù.
“Bạt Sơn cầu” của Liệt Hỏa Thần Quân lừng danh thiên hạ đã lâu, là thứ hung khí mà ai nghe nhắc tới cũng phải rùng mình. Nó có thể làm lỡ núi hoặc gϊếŧ hàng trăm người một lúc.
Sau khi Liệt Hỏa Thần Quân tạ thế thì “Bạt Sơn cầu” cũng biệt tăm.
Không hiểu sao Âu Dương Mẫn lại tìm ra được. Nếu lão có chừng chục trái thì việc làm bá chủ võ lâm dễ như trở bàn tay.
Lần tái xuất này của “Bạt Sơn cầu” đã khiến mọi người phải kinh tâm táng đởm. Thi thể của những kẻ gần nhất bị xé rách, thịt xương văng tứ tán, kẻ ở xa hơn một chút thì bị gục ngã bởi sức ép hoặc những mãnh vụn thép chứa trong quả cầu. Trong bán kính hai trượng, không một ai toàn vẹn cả.
Tiếng nổ kinh hoàng ấy đã khiến toàn trường bắn mình ngơ ngác, hoặc sợ hãi chẳng thiết đánh nhau nữa, nhất tề đình thủ trong một lát. Ngay Nam - Bắc Thiên Tôn cũng phải chậm chân, không hăng hái truy đuổi như trước.
Đường thoát ra rộng mở, Âu Dương Mẫn lao vυ"t đi, xông qua đám khói mây, hướng về phía đầu đường xuyên vực. Năm sáu trượng chẳng là bao đối với kẻ có khinh công như lão.
Âu Dương Mẫn chợt nghe phía sau có tiếng y phục lất phất đinh ninh rằng Nhạc Cuồng Loạn đang bám sát. Nào ngờ họ Nhạc lại lên tiếng:
- Minh chủ hãy coi chừng!
Âu Dương Mẫn chưa kịp phản ứng hai huyệt Tâm Du và Thần Đường trên mé lưng trái bị điểm trúng. Hai huyệt ấy thuộc Kinh túc Thái Dương Bàng quang, nằm ngay sau tim. May mà Âu Dương Mẫn khổ luyện “Thiết Sa thần công” đã hai chục năm nay nên da dày thịt chắc, không chết bởi đòn ám toán hiểm độc kia. Tuy nhiên, toàn thân lão bị tê tái, chân khí gián đoạn và tứ chi bủn rủn.
Âu Dương Mẫn lảo đảo song vẫn tỉnh táo nhận ra đối phương đã đoạt mất khúc cán cờ “Diêm Vương quỷ kỳ” mà lão đang giắt ở thắt lưng. Và cái gã mặc áo lông cừu trắng ấy là kẻ đã đoạt mất Thánh chỉ của Bắc Thiên Tôn.
Âu Dương Mẫn bàng hoàng tuyệt vọng khi thấy đối phương nhảy môt bước xa đến gần ba trượng, một thành tựu khó mà tin nổi. Nghĩa là Nhạc Cuồng Loạn chẳng có hy vọng đuổi kịp gã ta. Sự tình đúng như dự đoán của Âu Dương Mẫn, Nhạc Cuồng Loạn đã dừng lại bên bờ vực, không thèm làm chuyện vô ích, toi công.
Chân khí đã thông suốt sau một khoảnh khắc ngắn ngủi, Âu Dương Mẫn lướt đến cạnh đồng đảng trẻ tuổi mà quan sát. Lúc này, gã có áo lông cừu đã mang Quỷ kỳ chạy xa mất tăm.
Là người sáng suốt và quyết đoán, Âu Dương Mẫn quay phắt lại, tay trái giơ cao “Bạt Sơn cầu” thứ hai, lạnh lùng bảo Nam - Bắc Thiên Tôn:
- Nhị vị có muốn nếm thử mùi vị của “Bạt Sơn cầu” hay không?
Song Tôn đã chứng kiến cảnh Âu Dương Mẫn bị đoạt mất bảo vật, lòng vô cùng chán nản và tức giận. Bắc Thiên Tôn hậm hực trách móc:
- Nếu ngươi không cố tâm tranh đoạt với bọn ta thì đâu đến nỗi cờ báu bị kẻ khác phỗng tay trên. Nay chẳng ai rõ lai lịch gã cẩu tặc ấy thì vô phương tìm lại được.
Âu Dương Mẫn đưa tay vuốt chòm râu dài và đẹp, nhếch mồm cười nhạt đáp:
- Lão phu có cách. Quý hồ chư vị đồng lòng hợp tác, lão phu hứa rằng trong vòng ba tháng sẽ giao nộp linh kỳ.
Bắc Thiên Tôn không hiểu ý đối phương, nghi hoặc hỏi lại:
- Mong Âu Dương thí chủ nói rõ ra xem nào?
Âu Dương Mẫn gật gù, bước đến hạ giọng bảo:
- Gã ấy chính là Cầu Nhiêm đại hiệp Hàn Thiếu Lăng, nghĩa tử của Trung Thiên Tôn, lúc này mặc hắc y và bịt mặt đứng trên ngọn cây du. Chỉ mình gã mới đủ bản lĩnh và đởm lược để cướp Thánh chỉ cũng như cờ báu. Tuy gã đã chạy thoát nhưng sẽ sớm dâng nạp linh kỳ khi nghe Hội đồng Võ lâm và sư muội bị bắt. Phùng tiền bối cứ mượn cớ lục phái kháng chỉ, cùng lão phu bắt sống họ mang về Tổng đàn Võ lâm quản thúc.
Nam Thiên Tôn đã hiểu ra, ngắt lời Âu Dương Mẫn:
- Đấy đúng là diệu kế. Nhưng bần đạo chưa hiểu ra thí chủ sẽ được lợi gì trong việc này?
Âu Dương Mẫn ung dung đáp:
- Lão phu muốn đem “Diêm Vương quỷ kỳ” đổi lấy một đạo Thánh chỉ khác, chẳng những khôi phục mà còn tăng thêm quyền lực của Minh chủ võ lâm.
Bắc Thiên Tôn lên tiếng:
- Bần đạo đồng ý. Nhưng chúng ta sẽ loan báo cho gã họ Hàn biết rằng phài mang cờ đến phủ đường Trịnh Châu mà giao nạp. Hai phe chúng ta sẽ cho người túc trực ở đấy. Bần đạo sẽ thượng kinh ngay để xin Thánh chỉ, còn Từ lão huynh sẽ đi Trịnh Châu với thí chủ.
Cách thức này rất chu toàn, chẳng ai có thể lừa ai, nên song phương bắt tay nhau thắm thiết. Sau đó, bọn ma đầu điều động thủ hạ ào ào đến vây kín lục vị Chưởng môn nhân cùng đệ tử.
Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường kinh ngạc quát hỏi:
- Này, này... bọn ngươi âm mưu quỷ quái gì thế? Bọn ta nào ai giữ Quỷ kỳ?
Bắc Thiên Tôn cười nhạt:
- Do lục phái kháng chỉ, không chịu dâng nạp bảo vật nên cuối cùng Hàn Thiếu Lăng đã cướp mất. Và có thể chính Hội đồng Võ lâm đã chủ sự cho gã hành động như vậy. Do đó, thừa lệnh khâm sai đại nhân, bọn bần đạo đành phải mời lục vị về Tổng đàn Võ lâm, chờ gã họ Hàn mang Quỷ kỳ đến chuộc mạng.
Nghe giọng cười bá đạo của đối phương, Vân Thiên Tử ấm ức gầm lên:
- Bọn ta vì đức hiếu sinh mà tránh cảnh máu xương, nhiều phen nhẫn nhịn, không ngờ bọn tà ma các ngươi vì thế mà lộng hành. Hôm nay lục phái sẽ vì chính khí võ lâm mà rưới máu chốn này.
Lời nói của ông đã khiến dòng máu hiệp sĩ của hai trăm đệ tử chính phái sôi sục. Họ nhất tề giơ cao vũ khí thét vang:
- Sát ma vệ đạo!
Không phải ai khác mà chính là Đại Giác thiền sư xuất thủ trước, khai mào cuộc chiến. Ông xách thiền trượng nhảy vào tấn công Bắc Thiên Tôn. Tuy đạo hạnh thâm sâu nhưng Đại Giác còn là người nhiệt tình với sự tồn vong của giang sơn xã tắc. Nãy giờ ông thầm chán ghét lão phản tặc Phùng Thịnh Đoan mà chẳng nói ra.
Thiếu Lâm tự đứng đầu võ lâm nhờ những công phu võ học thượng thừa, ảo diệu cả về tâm pháp nội công lẫn pháp sử dụng khí giới. Và do thiền trượng là vật thiết thân của các nhà sư nên pho “Thiếu Lâm Giáng Ma trượng pháp” được xem trọng nhất. Sau khi Đạt Ma Tổ Sư nhập diệp, các đời đệ tử Thiếu Lâm đều khổ công rèn luyện và bổ khuyết thêm ngày càng uyên ảo, diệu kỳ.
Tuyệt học này không truyền ra ngoài thế tục và chỉ truyền riêng cho Phương trượng và những cao tăng cùng bối phận. Tuy Đại Giác thiền sư được thừa kế y bát nhờ làu thông kinh luật, và thiền hạnh cao siêu, nhưng ông cũng là cao thủ số một trong chùa. Đại Giác có thân hình cao lớn, tráng kiện, và rất thích hợp với lọai binh khí dài và nặng như thiền trượng. Yếu tố bẩm sinh cũng rất quan trọng đối với người học võ.
Đại Giác thiền sư khẽ niệm danh hiệu Phật tổ Như Lai rồi múa trượng xuất chiêu “Thiên Long Tảo Vân”. Thanh thiền trượng nặng hai mươi bảy cân lao vun vυ"t, hóa thành những chiếc móng rồng chụp lấy đối phương.
Sau trận đấu với Âu Dương Mẫn, Bắc Thiên Tôn Phùng Thịnh Đoan chẳng còn dám khinh thường đám hậu bối nữa. Lâu nay, lão sống trong hào quang quá khứ, quên mất câu “Trường Giang sóng hậu lãng thôi tiền lãng”.
Lão đã hao tổn khá nhiều sức lực mà chỉ rạch được một đường trên bắp tay họ Âu Dương, một kết quả rất nghèo nàn.
Giờ đây, Bắc Thiên Tôn thận trọng dồn sức đón chiêu trượng hùng mạnh của Phương trượng Thiếu Lâm. Ngân kích và thiền trượng đều là loại trường binh dài nặng khi chạm nhau phát ra những âm thanh chát chúa, rền rĩ, cùng những tia lửa nhỏ. Qua sự chấn động ở đôi bàn tay, Bắc Thiên Tôn biết rằng đối thủ có công lực rất thâm hậu. Và Đại Giác thừa dẻo dai để cầm cự đến cùng, chẳng khác gì Âu Dương Mẫn.
Bắc Thiên Tôn bỗng sinh lòng chán ghét sự già nua của mình, bực bội vũ lộng cây ngân kích tấn công đối thủ tới tấp. Nhưng vị Phương trượng chùa Thiếu Lâm chẳng hề lúng túng, vẫn giữ sắc mặt trang nghiêm, hòa ái, ung dung phá giải những thế kích của Phùng Thịnh Đoan. Là tuyệt học Phật môn nên pho “Giáng ma trượng pháp” chủ yếu về phòng thủ. Nhưng khi công khí thế của thanh thiền trượng cực kỳ hùng mạnh, thấm nhuần tinh thần đại dũng, vô úy của nhà Phật. Chiêu thức thì có vẻ giản dị song bao hàm cả đạo biến hóa, uyên ảo tuyệt luân, khiến địch thủ phải vất vả lắm mới phá giải được, Bắc Thiên Tôn rầu rĩ nhủ thầm:
- Không ngờ tên trọc Đại Giác này lại giỏi võ hơn sư phụ gã năm xưa Quả đúng như vậy, tiền nhiệm Phương trượng Thiếu Lâm tự, Nhất Kính thiền sư là người thấp lùn, nhỏ bé nên khó mà phát huy hết tinh hoa của phép đánh trượng.
Trong lúc Bắc Thiên Tôn bị Đại Giác cầm chân thì Nam Thiên Tôn cũng chới với bởi Vân Thiên Tử. Lý do là vì Chưởng môn nhân phái Võ Đương sử sụng thanh “Trạm Lư bảo kiếm”, thần vật thời Xuân Thu. Té ra, Vân Thiên Tử một lòng hỗ trợ Thiếu Lâm tự nên đã mang theo bảo vật trấn sơn mà giáng ma.
Ngay chiêu đầu tiên, Vân Thiên Tử đã chặt phăng mũi nhọn của cây kim thương khiến Nam Thiên Tôn rầu thúi ruột. Và sau mỗi lần va chạm, cây thương của lão lại hằn sâu một vết chém. Từ Tôn Chiến nổi giận, vũ lộng trường thương tấn công như vũ bão, hy vọng đè bẹp đối phương trước khi binh khí mình bị chặt gãy.
Nhưng Vân Thiên Tử là cao thủ số một của phái Võ Đương hiện tại. Hơn nữa, từ sau hôn lễ của Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán, ông vì thanh danh của môn phái mà bế quan luyện kiếm, chuẩn bị cho việc tranh giành danh hiệu Võ Lâm Đệ Nhất cao thủ.
Bản thân Vân Thiên Tử không háo danh song truyền thống trăm năm của phái Võ Đương bắt ông phải chấp nhận hy sinh. Danh hiệu cao quý ấy vốn thuộc về Trương Tam Phong, tổ sư phái Võ Đương. Vân Thiên Tử không chắc đạt được mục tiêu nhưng sẽ tận lực để không tủi hổ với anh linh của Trương tổ sư.
Mấy tháng nay, Vân Thiên Tử giao hết sự vụ của phái Võ Đương cho sư đệ Vân Hư Tử, tập trung nghiên cứu pho “Thuần Dương kiếm pháp”, tuyệt học cuối cùng của Dương chân nhân. Sau khi đệ tử thứ tám của Trương tổ sư, Á Hiệp Thuần Vu kỳ tạ thế thì không một ai luyện thành pho kiếm kỳ diệu ấy.
Nhưng việc thâm cứu kiếm phổ cũng giúp cho Vân Thiên Tử ngày càng gần với Kiếm Đạo hơn. Kiếm Đạo cũng như Thiền Đạo, kẻ có căn cơ sáng láng tuyệt trần thì đốn ngộ, kẻ bẩm sinh bình thường mà siêng năng, cần mẫn thì chầm chậm đi đến đích sau vài chục năm, gọi là tiệm ngộ.
Vân Thiên Tử thuộc trường hợp thứ hai. Ông luyện kiếm đã sáu mươi năm vì xuất gia từ lúc còn để chỏm. Ít khi xuất thủ với người ngoài nên chính ông cũng không ước lượng được bản lĩnh của mình. Huynh đệ trong môn phái luyện kiếm với nhau thì không có giá trị so sánh.
Nay phải đương đầu với một cao thủ lão thành như Nam Thiên Tôn, Vân Thiên Tử lại rất thận trọng. Nhưng càng đánh lâu, ông thức ngộ rằng thần tượng già nua kia chẳng đáng sợ lắm. Ông không thắng được họ song dẫu có thua thì cũng vài trăm chiêu. Nhất là khi ông có “Trạm Lư thần kiếm” trong tay thì chưa chắc “mèo nào cắn miu nào”.
Vân Thiên Tử cao hứng phi thường, mang hết sở học Võ Đương ra đối phó với đường thương dũng mạnh, độc địa của Nam Thiên Tôn. Tuy pho “Thái Cực Tuệ kiếm” không cao siêu thâm thúy bằng “Thuần Dương kiếm pháp” song cũng là tuyệt học do Trương tổ sư để lại.
Huyền môn chủ trương “tử nhiên nhi nhiên”, “nan không cương, nhược thắng cường”, nên kiếm pháp Võ Đương mềm mại, nhẹ nhàng, phóng khoáng.
Nhờ vậy mà đường kiếm nhanh như gió thoảng.
Trường kiếm trở thành vua của mọi loại vũ khí vì có rất nhiều ưu điểm.
Một trong những ưu điểm ấy là trọng lượng. Kiếm chỉ nặng độ sáu bảy cân nên người kiếm thủ không bị trở ngại khi thi triển khinh công. Do đó, Vân Thiên Tử nhẹ nhàng, khinh khoái như mây nổi, tiến thoái nhanh tựa ngọn phong thu phong. Ông lùi để tránh những đòn quét ngàn cân và xông vào ngay phản kích.
Mục tiêu của ông không chỉ là xác thân còm cõi của Nam Thiên Tôn mà còn là cây kim thương nữa. Ông rình rập chờ cơ hội chặt gãy khí giới của kẻ địch.
Từ Tôn Chiến biết điều ấy nên hết sức cảnh giác, ra đòn như chớp giật không để đối phương tiếp cận. Đánh nhau mà phải úy kỵ đủ điều như thế thì quả thật khổ sở, vất vả. Lão bực bội rủa thầm cái gã câm chết tiệt đã tặng “Trạm Lư thần kiếm” cho Võ Đương. Khi tình cờ tìm thấy thanh Trạm Lư, Thuần Vu Kỳ đã không sử dụng mà mang lên núi, đặt trên đùi pho tượng ân sư. Chàng cho rằng Trương Tam Phong là Vạn Thế Kiếm Vương phải có một thanh thần kiếm như Trạm Lư theo hầu. Nhưng chàng cũng không cấm những đệ tử đời sau dùng thần kiếm giáng ma vệ đạo. Bởi vậy, Vân Thiên Tử có quyền sử dụng Trạm Lư. Còn một yếu tố quan trọng khác khiến Song Tôn bối rối, họ không dám gϊếŧ sáu vị Chưởng môn nhân.
Tóm lại, Nam - Bắc Thiên Tôn đều đã có địch thủ xứng tay. Còn những tay cao thủ như Âu Dương Mẫn, Nhạc Cuồng Loạn, Quân Sơn chân nhân, Thất Hoàn Đao, Thần Đao bảo chủ, đại hộ pháp Xoa Lạp cốc... cũng bị bốn vị Chưởng môn nhân cùng các sư đệ đón đánh.
Kẻ phản đồ Lã Hoa Dương biết đây là cơ hội chuộc lỗi nên đã van xin Đại Nghiêm cởi trói, giải huyệt để y tham chiến. Vì nghĩa sư đồ mà thiền sư đã chấp thuận. Vả lại, trong hoàn cảnh khó khăn này, sự đóng góp của một cao thủ như Thiếu Lâm Thần Côn là rất quý giá.
Thủ tọa La Hán đường quyết định rất sáng suốt, Lã Hoa Dương dũng mãnh như hổ dữ sút chuồng, cây côn thép l*иg lộn chống trả rất hữu hiệu trước những thanh đao Nhật Bản dài và nặng. Tuy phẩm cách thấp kém nhưng họ Lã vẫn xứng danh nhân tài trẻ tuổi của Thiếu Lâm tự.
Lã Hoa Dương tinh thông cả trường côn lẫn đoản côn, nhưng khi bôn tẩu giang hồ thì thường mang côn ngắn cho đỡ bất tiện. Côn của gã được rèn bằng loại thép tốt nhất, nước thép xanh rờn và nặng gần hai chục cân. Tuy phép đánh đoản côn chú trọng những đòn giáng xuống, quét ngang nhưng thế điểm cũng có thức làm gãy xương kẻ địch nhờ sức nặng.
Cánh tay khỏe mạnh, thân hình đầy những bắp thịt rắn chắc, Lã Hoa Dương vũ lộng đoản côn liên tiếp đâm những đòn trời giáng khiến đao kiếm của kẻ địch phải ngân lời oán than rền rĩ. Và trong chớp mắt, mũi côn thọc vào đâu đó trên cơ thể đối phương.
Cửa Phật từ bi nên vũ khí của Thiếu Lâm không hề có mũi nhọn hay cãnh sắc. Thiền trượng, trường côn, đoản côn đều có đầu bằng. Nghĩa là, tuyệt học chính thống của Đạt Ma Tổ Sư sáng tạo ra chỉ gồm có phép luyện nội công, phép đánh trượng, phép đánh côn và quyền thuật. Còn tất cả các phép sử dụng lợi khí như đao, kiếm, thương, giáo... đều do những đệ tử người Trung Hoa thêm thắt vào. Người đời cho rằng Thiếu Lâm tự có đến bảy mươi hai tuyệt kỹ là do mượn ý trong Tây Du Ký, bởi Tôn Ngộ Không học được “Thất thập nhị huyền công”. Ngài Đạt Ma từ Thiên Trúc sang Tàu để hoằng dương Phật pháp và tu hành, thời gian đâu mà nghĩ đến lắm thứ võ công đến thế?
Nhắc lại, Lã Hoa Dương thần dũng như thiên tướng, trong nữa khắc đã đả thương được bốn, năm kẻ địch. Nhưng cuối cùng, gã cũng gặp được đối thủ xứng tay là Lã Bất Thành, đại đệ tử của Bắc Thiên Tôn. Hai gã ấy cùng họ Lã nhưng kẻ Bắc người Nam nên chắc chẳng có quan hệ bà con.
Lã Bất Thành phát hiện Thiếu Lâm Thần Côn quá ư lợi hại liền lướt đến ngăn chận. Lã Bất Thành cũng có ý muốn so tài với một trong “Võ Lâm Ngũ Tú”.
Lã Bất Thành chẳng nói chẳng rằng, dồn đủ mười thành công lực, đánh chiêu “Phụng Tiên Khai Lộ”, khí thế mãnh liệt như chẻ núi. Phụng Tiên chính thị Lã Bố có võ nghệ siêu quần bạt tụy, từng một mình đại chiến với Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi mà chẳng hề trầy da tróc vẩy.
Lã Phụng Tiên được xem là một trong những ông Tổ nghề đánh trường kích, cho nên đời sau thường dùng chữ “Bố” đặt tên cho chiêu thức.
Có lẽ, Lã Bất Thành đúng là dòng dõi mấy mươi đời của Lã Bố nên kích pháp cực kỳ tinh xảo. Đường kích của gã vừa hùng mạnh vừa ảo diệu, khiến Lã Hoa Dương nhất thời phải lép vế.
Thiếu Lâm Thần Côn tận lực chống đỡ, tuy không thọ thương nhưng phải thoái hậu nhiều bước. Gã chột dạ than thầm vì hiểu rằng tu vi của Lã Bất Thành hơn mình đến hai bậc. Gã cắn răng xông lên phản kích bởi chẳng còn cách nào khác.
Lã Hoa Dương chạm phải cường địch thì Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ cũng chẳng may mắn hơn. Đối thủ của chàng đẹp trai chính thị Hồ Đồ Thần Thương Khổng Đam. Tuy mang tiếng hồ đồ song sức lực và bản lãnh múa thương của Khổng Đam rất khá. Đôi cánh tay béo mập, to như cột đình múa cây kim thương ba chục cân, đánh cho trường kiếm của Mộ Duy Lộ run bần bật. Nếu không nhờ sự cần mẫn luyện công và giới sắc suốt một thời gian dài, Mộ Duy Lộ không chịu nổi mười chiêu thương sấm sét của họ Đổng.
Võ Đương Thần Kiếm chịu khó khép mình khổ hạnh, siêng năng luyện võ công cũng là vì muốn thoát khỏi cái bệnh liệt dương quái ác. Ngày ngày, gã được sư phụ cho uống thuốc và châm cứu nên thấy khá hơn. Có đêm, gã phát hiện đoản thương của mình lại hiên ngang, ngạo nghễ như xưa, lòng vô cùng hoan hỉ. Nhưng chẳng hiểu sao kỳ tích ấy không lập lại? Gã than thở với ân sư thì được Vân Thiên Tử an ủi rằng chưa đủ ba năm.
Mộ Duy Lộ không biết rằng Vân Thiên Tử cố tình kéo dài việc chữa trị, ngõ hầu đưa học trò mình về với chính đạo. Lã Hoa Dương và Mộ Duy Lộ mà còn bị hạ phong thì đám đệ tử Bạch đạo lại càng khốn đốn trước quân số đông đảo của tà ma. Hai đánh một không chột cũng què nên bọn tăng nhân, đạo sĩ thọ thương khá nhiều. Nếu không nhờ những thanh trường côn mạnh mẽ của một trăm linh tám nhà sư La Hán đường thì thế trận đã vỡ từ lâu.
Nhưng dần dà, chính những tay côn thần dũng cũng phải la oai oải, hoặc niệm Phật hiệu, bởi trúng đòn rách da, xé thịt. Lý do thứ nhất vì chênh lệch quân số, lý do thứ hai bởi ăn chay mau đói hơn ăn mặn. Vài chén cơm với xì dầu, rau cải, đậu hủ chỉ cung cấp số năng lượng bằng một nữa thịt thà, cá mú.
Đã cuối giờ Tỵ, ai nấy đều đói meo, sức đâu mà đòi chiến đấu!
Tình thế phe Bạch đạo rất nguy ngập, chỉ còn cách đầu hàng hoặc chờ chết.
Bắc Thiên Tôn ra sức đẩy lùi Đại Giác rồi phủ dụ:
- Chẳng lẽ hòa thượng ngươi không tiếc xương máu của đệ tử Thiếu Lâm hay sao? Hãy thức thời mà buông vũ khí quy hàng.
Đại Giác bình thản đáp:
- Cửa thiền không phân biệt sinh tử, bọn bần tăng thà chết chứ không chịu để thí chủ rước quân Mông vào tàn phá xã tắc, bức hại chúng sinh.
Vừa dứt lời, ông thi triển công phu “Sư Tử Hống” gầm vang:
- Tuẫn... Pháp!
Đấy là hiệu lệnh cho toàn thể đệ tử Thiếu Lâm đang hiện diện phải xã thân. Nếu Trung Hoa bị Mông rợ cai trị một lần nữa thì Phật giáo sẽ suy tàn, chẳng khác gì bị pháp nạn. Người Mông theo đạo Lạc Ma một phái Phật giáo ở Tây Tạng, họ chẳng ưa gì Phật giáo Trung Hoa.
Hai tiếng linh thiêng ấy dù thêm sức mạnh cho những đệ tử hiền lành suốt đời trai giới. Tuy nhiên, lực bất đồng tâm nên lát sau cục diện lại càng bi đát. Các vị chưởng mô và các sư đệ đều bi thương nhẹ, trừ Vân Thiên Tử. Ông vẫn an tàn và còn chặt đứt một đoạn dài cỡ gang tay ở đầu cây kim thương của Nam Thiên Tôn.
Khi viễn ảnh sắp đại bại của lục phái sắp đến gần thì phát sinh kỳ tích.
Một toán cao thủ Thiếu Lâm đông độ bốn trăm đã đến cứu viện, tiến vào tấn côn những kẻ đang trấn giữ đầu đường độc đạo.
Cửa ải quan yếu này do Trịnh Bá Nghiêm, Dương Tố Vy cùng sáu mươi kiếm thủ đảm đương. Nhiệm vụ của họ là ngăn không cho bất cứ ai thoát ra, chạy về Thiếu Lâm cầu viện. Và nếu như có ai đó ở ngoài đã làm việc đó thì viện binh cũng khó mà qua quan, trước khi cuộc chiến trong Độc Nha sơn kết thúc. Kẻ đứng chênh vênh trên đường hẹp thất thế rất nhiều, dễ bị kim thương của Bá Nghiêm đẩy rơi xuống vực. Đấy là chưa kể đến tác dụng của ám khí.
Sáu mươi gã thủ hạ Chiết Mai bang vốn là người của Phi Kiếm hội đất Thăng Trì nằm trên đường trục Đông Tây nối liền Trường An và Lạc Dương. Muốn tồn tại, Phi Kiếm hội phải liên minh với Chiết Mai bang bằng cách cử sáu mươi thủ hạ sang phò tá Dương Tố Vy. Kiếm thuật của bọn này không cao song thuật phóng tiêu bội phần linh diệu.
Tiễn kiếm hoặc tiểu đao là loại ám khí nặng, tầm sát thương trên dưới ba trượng, dùng để ám toán từ xa rất hữu hiệu. Trong việc mai phục hoặc đánh phủ đầu thì chúng vô cùng lợi hại.
Nhắc lại, chẳng hiểu kẻ lắm mồm nào đã chạy đến chùa Thiếu Lâm báo hung tin nên Thủ tòa Đạt Ma viện là Đại Tuệ thiền sư mau chóng đưa bọn đệ tử đến tiếp viện lục phái.
Người đông thì cũng tốt nhưng vấn đề là ở chỗ làm sao tiến vào được trận địa khi đối phương đã phòng thủ chặt chẽ?
Tất nhiên, kẻ có bản lĩnh cao cường nhất là Đại Tuệ thiền sư phải đi tiên phong. Ông xách thiền trượng lướt như bay trên con đường xuyên vực chi chít những cành cây cắm chênh vênh để gia cố.
Đáng lẽ, song song mặt đường, ngang tầm tay vẫn có sợi dây chảo lớn, nhưng chúng đã bị Trịnh Bá Nghiêm chặt đứt. Gã còn sai nhổ sạch cây gỗ ở hai bên đường một đoạn gần cuối dài bốn trượng. Nghĩa là, lúc kẻ địch lọt vào đến khúc ấy thì hoàn toàn bất lợi, bởi dưới chân không vững. Trong khi chỗ gã đứng rất an toàn, vững chắc.
Trịnh Bá Nghiêm tính toán đúng, Đại Tuệ thiền sư đã lộ nhiều sơ hở vì thiền trượng nặng mà tấn chẳng vững. Ông lúng túng đỡ nhiều chiêu thương của Trịnh Bá Nghiêm và những ám khí hiểm ác không sao tiến lên được dù võ công rất cao siêu.
Trong cảnh ngộ khó khăn ấy, Đại Tuệ trúng liền hai mũi tiễn vào đùi, đành phải thối lui băng bó và đổi vũ khí. Trường côn của đám đệ tử nặng chỉ bằng nửa thiền trượng sẽ giúp ông chống đỡ ám khí hữu hiệu hơn.
May mà những mũi tiễn kiếm ấy không tẩm độc, Đại Tuệ nhanh chóng trở lại với Bá Nghiêm. Ông dùng toàn lực múa tít cây trường côn bằng gỗ, ngoài bọc thép mỏng, đánh văng ám khí và cố sức đẩy lùi Bang chủ Bích Huyết bang.
Nhưng Trịnh Bá Nghiêm cũng là tay kiệt xuất, kiên cường chống cự bằng pho “Hoàng Long thương pháp” mà gã đã khổ luyện hai mươi năm. Gã được ưu thế là có thể đảo bộ, chuyển tấn rất ung dung, trong lúc Đại Tuệ thì chết dí trong một chỗ và lòng thấp thỏm đất lở bất ngờ. Chẳng phải bậc cao tăng này sợ chết, ông chỉ lo không cứu được Phương trượng sư huynh và mấy trăm người khác nữa. Do đó, Đại Tuệ hoàn toàn bị cầm chân và số phận những kẻ bị vây hãm trong kia khó mà thay đổi.
Đại Tuệ đau lòng khôn xiết, phẫn uất đánh mấy đòn lôi giáng, đẩy lùi Bá Nghiêm vài bước. Nhưng phe địch nhất tề phóng liền mấy chục ngọn tiễn kiếm, khiến ông phải bỏ ý định tràn lên, múa trường côn chống đỡ. Và Bá Nghiêm đã kịp quay về vị trí cũ. Đại Giác thiền sư lại trúng thêm một mũi tiễn kiếm vào bắp chân tả, khó mà địch lại Trịnh Bá Nghiêm. Trong lúc ông sắp tuyệt vọng thì cứu tinh xuất hiện, đánh vào sau lưng kẻ địch.
Lực lượng ấy đông độ bốn mươi, võ phục đủ màu song đều bằng gấm lục tốt, áo cừu ngắn cũng thuộc loại đắt tiền. Trong võ lâm làm gì có bang hội nào chơi sang đến thế!
Họ nhất tề rút kiếm, lột nón tre ở tay tả xông vào tấn công. Dương Tố Vy ngờ ngợ đoán ra đối phương là người của Xoa Lạp cốc. Nàng ta lại còn điên đầu hơn bọn tơi nón kia lại được chỉ huy bởi Thiết Đảm Hồng Nhan và gã hắc y bịt mặt. Làm sao Dương Tố Vy có thể ngờ đến việc những đệ tử Xoa Lạp cốc trở thành gia đinh của Quách gia trang và đến đây để bảo vệ Tử Khuê.
Kiếm là sở đoản của Bắc Thiên Tôn song lại là sở trường của lão đạo sĩ núi La Sơn. Do đó, kiếm thuật của Tống Thụy hơn Tố Vy một bậc. Thép chạm thép gay gắt và ả họ Dương khẽ rú lên, chân lùi mau bốn bước. Chiêu “Vương Mẫu Khai Liêm” của Tống Thụy đã rọc một đường từ ngực đến thắt lưng của kẻ địch. Tuy vết cắt không sâu nhưng lại khiến tấm võ y diêm dúa màu hồng phấn và yếm đào của Tố Vy bị rách tang hoang, ngọc nhũ phơi bày lồ lộ.
Tuy chẳng phải gái tơ, đông đào phong kính, nhưng Dương Tố Vy cũng không quen với việc thoát y trước mặt đám đông. Ả vừa giận vừa thẹn, theo bản năng của nữ nhân mà bối rối đưa tay trái lên cố khép hai mảnh vãi rách để che ngực. Khổ thay, Thiết Đảm Hồng Nhan cứ xông tới ra đòn như vũ bão, nên Tố Vy đành phải để mặt cặp tuyết lê đong đưa, nhún nhẩy, chú tâm đối phó.
Cảnh tượng hấp dẫn ấy đã như thỏi nam châm thu hút những cặp mắt yếu đuối của bọn đàn ông. Và ngay lập tực có hai gã kiếm thuẫn nhanh nhẫu đến hỗ trợ cho Thiết Đảm Hồng Nhan, dẫu nàng ta đang thắng thế. Ánh mắt họ dán chặt vào cặp đào to mơn mỡn, mặt đần ra bởi nụ cười ngớ ngẩn đầy thèm khát.
Tất nhiên, họ chẳng muốn sát hạt Dương Tố Vy, chỉ mong cuộc chiến kéo dài để nhìn no mắt. Là dân tộc Thổ, tính tình mộc mạc, kém đường xảo trá nên không đạo đức giả như người Hán. Khi thích thú, họ nhìn ngay chứ không thèm liếc trộm hoặc nhìn lén.
Chỉ lát sau, đã có hai gã hám gái nữa nhập cuộc, chúng nuốt nước bọt ừng ực đua nhau vang lên cốt để Thiết Đảm Hồng Nhan chán nản, phì cười, nhường trận địa cho bọn đàn ông cô đơn, thiếu thốn kia. Nàng biết rằng, Quách gia trang chẳng đủ tỳ nữ mà gả cho bốn mươi gã hàng binh Xoa Lạp cốc này, để chúng ở lại Hứa Xương phò tá Tử Khuê.
Chính Tử Khuê cũng không biết đám thủ hạ hiện diện ở Độc Nha sơn.
Quách trang chủ lo cho ái tử nên đã sai Dịch Quan San dẫn bọn kiếm thủ đuổi theo.
Sau khi dùng “Diêm Vương quỷ kỳ” để gây cuộc tàn sát giữa hai phe tà ma. Tử Khuê đã đưa Thiết Đảm Hồng Nhan về động đá, nơi Trác Thanh Chân đang chờ đợi. Họ cùng nhau bàn bạc kế hoạch đoạt lại cờ báu, Tử Khuê định sẽ đích thân ra tay, song Trác Thanh Chân đã giành lấy nhiệm vụ ấy. Nàng ta vui vẻ bảo:
- Tiểu muội đánh nhau không giỏi bằng, nhưng nghề khinh công móc túi thì dám xưng sư tỷ của đại ca. Hơn nữa, việc tiểu muội đoạt cờ rồi đào tẩu dưới bộ dạng của kẻ cướp thánh chỉ, sẽ khiến đối phương bị rối trí. Dẫu sau này họ khám phá ra Hàn Thiếu Lăng là ai thì Quách gia trang cũng không hề bị liên lụy.
Thiết Đảm Hồng Nhan rấ khâm phục đầu óc nhìn xa trông rộng, tính toán chu toàn của Trác Thanh Chân. Nàng buột miệng khen:
- Trác đại thư quả là sáng suốt, tiểu muội vô cùng khâm phục.
Thanh Chân nhanh nhẩu tự giới thiệu mình là đệ tam phu nhân của Tử Khuê nên Tống Thụy bắt buộc phải gọi nàng ta là chị. Nàng hơi buồn khi biết Tử Khuê đã có ba vợ, song không chán ghét Thanh Chân. Nhờ cô ả họ Trác quái dị này mà Thiết Đảm Hồng Nhan ngộ thức ra rằng mình phải chủ động dành lấy duyên nợ.
Tử Khuê là một nam nhân đôn hậu, ngốc nghếch và nhút nhát. Chờ gã mở miệng cầu hôn thì e rằng đầu cả hai đã bạc.
Khi Thanh Chân thành công rời khỏi Độc Nha sơn, Tử Khuê và Tống Thụy dự định sẽ ám sát Quân Sơn chân nhân rồi đào tẩu. Nào ngờ, lòng dạ Âu Dương Mẫn lại thâm độc phi thường, nghĩ ra kế liên thủ với Nam - Bắc Thiên Tôn để bắt sống Hội đồng Võ lâm mà đổi lấy cờ. Dẫu Tử Khuê có xuất đầu lộ diện, tự nhận mình là Hàn Thiếu Lăng thì bọn tà ma cũng không bỏ cuộc vì đã leo lên lưng cọp, gây hấn cùng sáu phái. Chàng đang định liều chết một phen thì gã anh vợ Dịch Quan San xuất hiện. Đồng thời viện binh của Thiếu Lâm tự cũng đến nơi. Thế là Vô Tướng Quỷ Hồ có ngay một kế sách lưỡng toàn.
Giờ đây, trong lúc Thiết Đảm Hồng Nhan hý lộng Dương Tố Vy ở vòng ngoài thì Tử Khuê đánh thốc vào phòng tuyến địch, cố tìm đến chỗ của Trịnh Bá Nghiêm. Chàng cố loại trừ được gã chiếm lấy vị trí hiểm yếu này thì quân tiếp viện mới vào được Độc Nha sơn mà cứu người.
Lòng nóng như lửa đốt, Tử Khuê xuất thủ vô cùng quyết liệt, tàn nhẫn.
Kiếm quang chớp lên loang loáng và bọn đệ tử Phi Kiếm hội thi nhau từ trần một cách mau lẹ, không kèn không trống. Bản lĩnh kém cõi nên chúng không thể chống đỡ đường gươm thần tốc vả ảo diệu vô song của một kẻ đã bước qua ngưỡng cửa kiếm đạo.
Bản năng sinh tồn đã giúp những tên khác ngửi thấy mùi chết chóc tỏa ra từ cái gã hắc y bịt mặt kia. Chúng khôn ngoan dạt ra, lịch sự nhường bước.
Thậm chí có gã sợ hãi đến nỗi đã cố mỉm cười thân thiện với vị hung thần.
Đứng trước cái chết, đôi khi người ta có những hành vi khó hiểu.
Nhưng chính những nụ cười ngớ ngẩn trên khuôn mặt đầy vẻ khϊếp sợ ấy lại khiến lòng Tử Khuê chùng xuống. Té ra, đằng sau cái vỏ võ sĩ, kiếm thủ là một con người chân thực, luôn thiết tha được sống còn. Họ chỉ là những người tầm thường nghèo khổ, không tham vọng lớn, chỉ vì cơm áo của thê nhi mà dấn thân vào chốn giang hồ sát máu và chết bởi dã tâm của kẻ phát lương.
Niềm bất nhẫn trong lòng hóa thành phẫn hận, Tử Khuê lướt mau qua trận địa và không gϊếŧ ai nữa. Có mấy tên ngốc dại dộ cử kiếm ngăn chận thì chỉ chống đỡ qua loa.
Cuối cùng, mục tiêu cũng đã xuất hiện trước mắt. Tử Khuê gằn giọng báo tử:
- Bá Nghiêm! Hàn mỗ đến lấy mạng ngươi đây!
Dứt lời chàng nhảy xổ đến xuất chiêu “Phù Sinh Nhược Mộng”, kiếm ảnh mêng mang mở rộng, chụp lấy thân hình gã họ Trịnh. Trịnh Bá Nghiêm cảm nhận được ngay luồng sát khí lạnh lẽo, kinh hoàng múa kim thương, thân hình xoay tít cố bảo vệ mạng sống trong cảnh lưỡng đầu thọ địch. Gã đang phải đối phó với Đại Tuệ thiền sư, nay có thêm gã chết tiệt Hàn Thiếu Lăng thì khó mà thoát chết.
Bá Nghiêm đặt hết hy vọng vào chiêu “Luân Thương Kháng Vũ” này.
Nam Thiên Tôn đã từng khẳng định đây là chiêu thức kỳ tuyệt nhất thiên hạ, dẫu mưa to cũng không làm ướt áo thì đao kiếm chẳng thể xâm nhập. Cây thương thép nặng ba chục cân quây vù vù, thương ảnh trùng điệp, dệt lưới kính như bưng. Và kình lực của nó cực kỳ mãnh liệt, khả dĩ đẩy lùi mọi đòn công kích.
Nhưng Trịnh Bá Nghiêm chẳng phải là Nam Thiên Tôn, có công lực hoa giáp. Trong khi Đại Tuệ thiền sư lại muốn trút hết sân si lên đầu kẻ đã cầm chân mình từ nãy giờ. Vị Thủ tòa Đạt Ma viện dồn hết mười thành hỏa hầu ra đôi cánh tay rắn chắc, múa côn vào đánh chiêu “Di Sơn Khai Lộ”. Nghe tên cũng biết chiêu này cương mãnh phi thường, khí thế dời non lấp biển.
Cây trường côn của thiền sư liên tiếp chạm phải màn thương dày đặc quanh thân Trịnh Bá Nghiêm. Tuy không phá thủng được song cũng khiến họ Trịnh đổ máu vì đường thương này.
Tử Khuê thừa thế thi thố xuất kiếm chập chờn vài lượt là khóa được mũi kim thương. Và trông chớp mắt chàng ập vào, hướng kiếm đâm thủng ngực họ Trịnh.
Bá Nghiêm rên lên thảm khốc vì trúng thêm một côn như trời giáng của Đại Tuệ thiền sư. Thân thể của gã văng xa hơn trượng, rơi thẳng xuống vực sâu. Dường như lòng trời thương tiếc cho bậc anh tài đoản mệnh, làm tự tuyệt nhà họ Trịnh, nên bỗng nhiên tuyết đầu Đông rơi lất phất và mỗi lúc một dày, mù mịt không gian.
Lúc này, toán quân Phi Kiếm hội cũng đã tan tác, nhường vai trò trấn ải cho bọn thủ hạ của Tử Khuê. Nghe nói Bang chủ Chiết Mai bang thoát chết, bỏ chạy bởi chẳng người đàn ông chân chính nào lại nỡ gϊếŧ một nữ nhân đang phơi bày mộ ngực mỹ miều, gợi cảm.
Chỉ trong khoảnh khắc, bốn trăm tăng lữ Thiếu Lâm đã vào hết Độc Nha sơn, theo Đại Tuệ thiền sư đi cứu viện Phương trượng Chưởng môn. Bọn Tử Khuê cũng tham gia vì ở lại giữ cửa ra là một hành động dại dột vô ích, khi Âu Dương Mẫn vẫn còn một trái “Bạt Sơn cầu”. Vì thứ hung khí đáng sợ ấy mà Tử Khuê phải dặn dò Đại Tuệ phân táng mỏng quần tăng chứ không đi thành đội ngũ đông người.
Sự xuất hiện của đám viện binh đông đảo võ nghệ cao cường đã sớm thay đổi cục diện. Song Tôn cùng Âu Dương Mẫn càng hoang mang hơn khi nghe Dương Tố Vy chạy đến báo cáo rằng gả hán tử Hàn Thiếu Lăng chưa hề rời khỏi Độc Nha sơn và có mặt hạ sát Trịnh Bá Nghiêm.
Âu Dương Mẫn thấy rõ diện mục kẻ cướp cờ, đúng là cái gã đoạt Thánh chỉ. Vậy phải chăng Hàn Thiếu Lăng vô can? Lão không biết rằng Trác Thanh Chân đã cẩn thận mang chiếc mặt nạ mà Tử Khuê dùng lúc tiến vào Độc Nha sơn. Nàng đã chẳng hủy đi hai vật tinh xảo ấy theo lời dặn của Tử Khuê. Tuy nhiên, bọn tà ma chỉ tạm thời bị lừa vì kế hoạch của Tử Khuê có một sơ hở rất lớn. Đó là vì sao Hàn Thiếu Lăng lại phải bịt mặt? Chàng là người trung hậu, kém phần lão luyện nên không thể chu đáo hơn được nữa. May thay, Dịch Quan San đã kịp thời sữa chữa sai sót chết người ấy. Gã đã mau chóng biến Tử Khuê thành Cầu Nhiêm đại hiệp, với bộ râu rậm lừng danh.
Giờ đây, Tử Khuê lột khăn chường bộ mặt ấy ra xông vào tấn công Quân Sơn chân nhân Đường Mai Giãn. Lão họ Đường đang là đối thủ của Bang chủ Cái bang Thất Bổng Cái, Thạch Kính Tường rất căm hận kẻ đã hại bạn mình là Cửu Hoa Thánh Y, nên chiến đấu như hổ dữ, bản lĩnh của ông kém họ Đường một bậc nên bị hạ phong, trúng vài mũi kiếm máu loang đỏ áo. Nhưng thương tích không nặng vì lão ăn mày vẫn kiên cường cầm cự, chờ cơ hội báo thù cho bạn. Cái bang vốn là một bang hội chứ không phải môn phái. Cho nên pho võ học truyền tông “đả cẩu bổng pháp” chỉ có ý nghĩa tượng trưng chứ không xuất sắc lắm. Bổng là gậy dài trên dưới ba xích, vật thiết thân của bọn khất cái.
Ăn mày mà không chống gậy thì ra thể thống gì nữa.
Tục ngữ có câu “chó cắn rách áo” nghĩa là lũ cẩu chẳng ưa gì những người nghèo khổ. Nhưng tại sao lại có được tính chó má của loài người cơ chứ?
Cho nên, công dụng đầu tiên của gậy ăn mày là để đối phó với loài chó, thành danh “đả cẩu bổng”.
Trong Cái bang, Bang chủ và các trưởng lão, chức sắc không phải đi xin ăn. Gậy của họ chẳng đánh chó mà đánh người, bảo vệ quyền lợi của đệ tử, nên làm bằng thép. Riêng cây “đả cẩu bổng” của Thạch bang chủ thì được trạm trổ rất công phu và có đầu nhọn hoắt.
Trước khi gia nhập Cái bang, ở tuổi ba mươi, Thạch Kính Tường là một kiếm thủ. Và ông đem những đặc tính ưu việt của kiếm pháp bổ sung cho pho “đả cẩu bổng pháp”. Nhờ vậy, tổ học thêm phần lợi hại, củng cố địa vị Cái bang trên chốn giang hồ.
Trừ “Địa Đường đao pháp”, hầu hết võ công Trung Nguyên đều nhắm vào thượng hàng là chủ yếu. Nhưng vì chó thấp hơn người nên “đả cẩu bổng pháp” có rất nhiều đòn tấn công hạ bàn, từ rốn trở xuống, lối đánh này rất khó chịu.
Do đó, dù bản lĩnh cao cường hơn mà Quân Sơn chân nhân không thể kết liễu được Thạch bang chủ. Nếu lão gϊếŧ được họ Thạch thì hạ thể cũng khó vẹn toàn trước những thức đâm hiểm ác, quái dị. Hơn nữa, kế hoạch của phe lão là bắt sống Hội đồng Võ lâm chứ không sát hại. Quân Sơn chân nhân kiên nhẫn chờ đợi Thất Bổng Cái sơ suất vì kiệt sức, vì mất máu, lão vẫn vẹn toàn trong khi Thạch bang chủ đã trúng ba vết thương nhẹ.
Tuy là sư đệ của Bắc Thiên Tôn song Đường Mai Giãn lại sở trường kiếm thuật chứ không phải kích pháp. Lão hơi nhỏ con nên không thích hợp với loại vũ khí dài và nặng ấy.
Niên kỷ gần tám mươi, Chân nhân có nhiều chục năm tu vị. Đường gươm của lão trầm ổn, nhanh nhẹn và kín đáo phi thường, cho nên y phục vẫn khô ráo dù tuyết rơi như mưa.
Nhưng tình trạng ung dung thư thái không còn nữa khi gã rậm rậu Hàn Thiếu Lăng xuất hiện. Họ Hàn chẳng nói chẳng rằng vung kiếm hợp lực cùng Thất Bổng Cái. Đã nghe danh Cầu Nhiêm đại hiệp, kẻ từng đả thương Minh chủ Âu Dương Mẫn, Đường Mai Giãn đành thoái hậu, tránh cảnh bị giáp công.
Thất Bổng Cái không đuổi theo nhưng Hàn Thiếu Lăng tiếp tục bước tới, quyết không tha cho kẻ địch. Họ Hà, tức Tử Khuê nóng lòng báo phục cho sư thúc nên đã xuất chiêu “Hồng Thủy Thao Thiên” trong “Oán Thiên kiếm pháp”.
Hàng ngàn thức kiếm thần tốc tạo thành những đợt sóng dữ, cuồn cuộn xô về phía đối phương, kiếm kình quyện lấy ngàn vạn hoa tuyết nên kiếm ảnh có màu trắng lạnh lùng, tang tóc. Khí thế của chiêu kiếm oai mãnh chẳng khác gì trận Đại Hồng Thủy đang tràn dậy, tràn ngập cả đất trời.
Tuy nhiên, Quân Sơn chân nhân công lực thông trầm, hơn gã tuổi trẻ vài bậc nên không hề sợ hãi, dùng chiêu thức “Động Đình thu vũ” mà đối phó.
Tuyệt chiêu này ảo diệu vô song, công thủ vẹn toàn, kết tinh của mấy chục năm nghiên cứu, rèn luyện.
Quả nhiên, Đường Mai Giãn chống đỡ, hóa giải được gần hết đòn công của đối thủ. Và sau hơn trăm tiếng thép tinh tang, lão còn phát hiện sơ hở chết người, mừng rỡ thọc một kiếm nhanh như chớp vào ngực trái Thiếu Lăng.
Đòn này tuyệt đối không né tránh được, trừ phi nạn nhân đã biết trước.
Khổ thay, bản chất của “Oán Thiên kiếm pháp” là như thế. Nó xảo trá và hiểm độc chẳng khác gì lão trời già. Lão ban cho con người hạnh phúc rồi đột nhiên lấy đi hết tất cả.
Năm xưa, Trương Mỹ Thành võ công xuất chúng, tài sản cự vạn, suốt đời làm việc thiện, được giới giang hồ tưng xung là Tứ Xuyên Kiếm Phật, thanh danh lẫy lừng thiên hạ. Nhưng hỡi ôi, đến tuổi lục tuần thì vị đại thiện nhân mất sạch phụ mẫu, huynh đệ, thê nhi, cháu chắt, tổng cộng mười tám người vì bệnh đậu mùa.
Trương lão sống sót mà như đã chết. Ông đau lòng phát điên lên được và vô cùng căm hận trời xanh. Ông bỏ nhà lên ngọn núi cao nhất của Vũ Lăng Sơn mà ẩn cư. Ngày ngày ngửa mặt chửi rủa Hoàng Thiên và sáng tạo pho “Oán Thiên kiếm pháp”.
Giờ đây, Đường Mai Giãn trở thành nạn nhân kế tiếp của lòng thù hận ấy. Lão tưởng mình đã có được cơ hội ngàn vàng, nào ngờ chỉ là bẫy rập. Hàn Thiếu Lăng khẽ lách ra mé phải để tránh đòn và lặng lẽ đâm vào huyệt Cự Khuyết trên bụng kẻ địch. Cự Khuyết thuộc Mạch Nhâm, thẳng trên rốn bảy thốn, là huyệt mộ của tâm, nên khi bị tổn thương nạn nhân khó tránh tử vong.
Nhưng sự đời biến ảo vô thường, tựa phong vân bất trắc, mũi kiếm của Tử Khuê đã chạm phải một vật gì đó rất cứng rắn, lệch sang bên trái, đâm thủng người đối phương, nên vết thương không sâu đến nội tạng vì chạm phải xương sườn.
Cảm giác đau đớn bởi gãy xương vô cùng khó chịu nên Quân Sơn chân nhân chẳng còn chút dũng khí nào nữa, tung mình chuồn thẳng. Lão vừa chạy vừa thầm cảm ơn cái mãnh kính chiếu yêu bằng đồng xanh đang nằm trước ngực. Không thì mạng lão đã ra ma.
Chưa năm nào lại có nhiều tuyết đầu mùa như năm nay. Mọi năm tuyết đầu Đông rơi nhè nhẹ, điểm lác đác trên cây cỏ, là cảnh đẹp mà tao nhân mặc khách ưa thích. Nhưng hôm nay cứ như một trận bão tuyết tháng chạp đi ngang rặng Tung Sơn này vậy. Quân Sơn chân nhân lao đi giữa làn mưa tuyết mịt mùng, hy vọng gã chết tiệt họ Lăng sẽ lạc dấu. Nhưng Tử Khuê sở hữu tuyệt học “Thao Quang thân pháp”, lại đang tuổi thanh xuân, cơ bắp cuồn cuộn, chạy nhanh như vó ngựa. Chàng đã bắt kịp Đường Mai Giãn khi lão vượt được nữa con đường xuyên vực.
Gió bấc ào ào thổi, che giấu tiếng chân người, tiếng y phục lất phất nên Đường Mai Giãn không phát hiện kẻ thù cách mình chỉ hai trượng. Và Tử Khuê chẳng bỏ lỡ cơ hội tốt, thi triển tuyệt kỹ “long tu xạ nguyệt”.
Thanh trường kiếm rời tay chàng, bay đi với tốc độ của mũi tên rời dây cung. Thủ pháp này tương tự pháp phóng ám khí nhưng cao siêu, phức tạp hơn nhiều. Lý do là vì trường kiếm nặng nề, và phải bay theo đường thẳng băng tựa đường tên chứ kô lộn nhiều vòng như tiễn kiếm, tiểu đao. Nếu không tiếng động nó tạo ra sẽ rất lớn, mất yếu tố bất ngờ, ám muội.
Thực ra, tuyệt kỹ này ít hiệu quả khi song phương đối diện. Trường kiếm quá cồng kềnh, chẳng phải thứ dùng làm ám khí. Và nếu đánh lén sau lưng thì cũng không bằng tiểu đao. Như Vu Mộc chân nhân vẫn bắt Tử Khuê phải luyện thủ pháp “long tu xạ nguyệt”. Vì nó chính là bậc thượng thừa của mọi phép phóng ám khí trên đời.
Tử Khuê đã quyết định đúng đắn khi phóng kiếm, gió rít vù vù đã làm mờ thính lực của đối phương và mũi kiếm xuyên thủng lưng Đường lão quỷ.
Tuy chân khí bế tắc, tứ chi bủn rủn vì đòn trí mạng, song do đà phóng tới mà Quân Sơn chân nhân vẫn lảo đảo thêm một ít bước mới gục xuống. Đường rất hẹp nên suýt nữa xác lão rơi xuống vực, nếu không vướng vào những đoạn cành cây cắm dính trên đường. Lão nằm ngửa, vắt vẻo, chênh vênh, mắt trợn trừng bất động.
Tử Khuê sợ mất bảo vật của sư môn, vội bước đến giữ chân và thò tay vào ngực áo lão mò tìm mảnh kính chiếu yêu “Bát Quái Đồng Kính”.
Chàng vẫn chỉ là gã trai non nớt, thiếu kinh nghiệm giang hồ, nên đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Đối với một cao thủ có mấy chục năm tu vị thì chỉ chết ngay khi vỡ tim hay đầu lìa khỏi cổ. Nay Quân Sơn chân nhân bị trường kiếm đâm xuyên qua phổi nhưng tim vẫn nguyên vẹn. Tuy sắp chết nhưng trong phút hồi dương lão vẫn huy động chút sức lực tàn vỗ vào ngực Tử Khuê, đẩy chàng văng ngược về sau, rơi xuống phần vực thẳm bên kia đường.
Lực phản chấn cũng làm trốc gốc mấy đoạn cành cây mà xác Quân Sơn chân nhân đang nương tựa, nên lão cũng cùng số phận với Tử Khuê. Bão tuyết đã che mờ cảnh vật, chẳng ai chứng kiến cảnh “đồng ư quy tận” này.
Đường lão quỷ chết là cái chắc vì vết kiếm thương nghiêm trọng, dù có rơi xuống vực hay không. Nhưng Tử Khuê thì còn đầy đủ chân khí và hoàn toàn tỉnh táo. Do bản năng sinh tồn, Tử Khuê cào cấu lớp đất đá để làm giảm đà rơi. May thay, hai bàn tay chàng mang “Ngư giáp miệt” bền chắc phi thường, nên các ngón tay có thể cắm sâu vào đất và không bị tróc thịt, gãy xương. Hai là, con đường xuyên vực Độc Nha sơn chẳng phải là một bức tường dựng đứng mà là một phay đất dạng lưỡi dao, trên mỏng dưới dày, có độ dốc.
Nếu chân đế không rộng thì con đường đã sụp đổ từ lâu rồi.
Đà rơi quá mạnh nên Tử Khuê không sao trụ lại được. Bàn tay chàng chỉ làm cho sỏi đá, bùn đất bị bóc ra từng mãnh và thân hình chàng lại tiếp tục lăn lông lốc. Tuy nhiên, những nỗ lực ấy cũng sẽ giúp chàng toàn mạng, thoát cảnh thịt nát xương tan.
Song Tử Khuê lại sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu, luôn gặp xui xẻo.
Lúc xuống đến chân dốc, đầu va mạnh vào một tảng đá lớn và chàng lập tức hôn mê.
Mãi trưa hôm sau Tử Khuê mới hồi tỉnh. Tuyết vẫn lất phất rơi xuống vực, phủ đầy trên cơ thể chàng. Nằm bất động trong tuyết quá lâu, cơ thể Tử Khuê hầu như đông cứng lại. Chàng cố vận khí và cử động tứ chi song chỉ hoài công, cái lạnh thấu xương đã xăm chiếm hoàn toàn làm kinh mạch bế tắc, máu huyết sắp ngừng chảy.
Biết mình khó thoát chết, Tử Khuê vô cùng sợ hãi, buồn rầu. Nghĩ đến người thân, chàng đau lòng bật khóc.
Chết từ từ là cái chết đáng sợ nhất. Người ta có quá nhiều thời gian để khϊếp sợ và tiếc nuối quá khứ. “Vạn cổ tử vi nan” dẫu là bậc anh hùng cái thể cũng chỉ có thể gượng cười chứ lòng thì buồn vô hạn. Họa chăng là những bậc thiền sư giác ngộ, những Chân nhân đắc đạo, tin vào thế giới bên kia, lằn ranh sống chết.
Nhưng Tử Khuê không phải là kẻ tu hành, chàng còn rất trẻ nên khát sống vá yêu, biết mất cuộc sống trần tục này, nơi có những người chàng dấu ái.
Hình ảnh của họ hiện ra với bao triều mến khiến Tử Khuê đau đớn khôn xiết.
Chàng cố mấp máy đôi môi băng giá gọi tên từng người yêu dấu. Và người cuối cùng chàng nhớ đến là vị nghĩa ca họ Lỗ, một hồn ma bóng quế.
Song chính Lỗ phán quan lại làm bừng lên hy vọng sống sót trong lòng Tử Khuê. Chỉ mình lão có đủ khả năng giúp đỡ chàng trong cảnh tuyệt vọng này. Tử Khuê phấn khởi, tập trung tàn lực, thều thào thành tiếng:
- Lỗ đại ca... Lỗ đại ca...
Chàng gọi mãi những tiếng kêu cứu rời rạc, thê lương ấy và chết liệm dần. Khi đã đặt một chân qua ngưỡng cửa “Quỷ Môn Quan”, Tử Khuê mơ màng nghe tiếng ai đó than thở