- 🏠 Home
- Linh Dị
- Dị Giới
- Án Sát Tầm Hồ
- Chương 2: Quỷ nương báo oán
Án Sát Tầm Hồ
Chương 2: Quỷ nương báo oán
Hai vụ trọng án xảy ra liên tiếp khiến nhà hội đồng Sung trở thành tâm điểm bàn tán, thiên hạ đều lấy đó làm chuyện phiếm bàn nhau khi gặp ở chợ hoặc sau cuộc trà dư tửu hậu, ai ai cũng đều đồng ý chỉ có cô hồn dã quỷ mới gây ra được những thứ kinh dị như vậy. Bà hội đồng tuy thất kinh, hồn vía mười phần xiêu lạc hết nửa, tuy nhiên nhìn điền sản bạc vạn, không nỡ chia chác cho ai nên không cho ông Tuấn đi nhờ Thiên Cửu. Cửu thì vẫn ung dung thưởng rượu, còn sai thằng hầu đi tìm mấy cô đào về hát mua vui rất chí thú. Bà hội đút tiền cho sĩ quan Pháp rất hậu hĩnh, chỉ mới hai giờ sau, một xe chở gần trăm lính khố xanh, khố đỏ, lính Pháp, trang bị súng ống rất hăng máu, đứng đầy cả phủ, tưởng chừng như con ruồi cũng khó bay lọt vào.
Đêm hôm, vừa mới canh hai, Tuấn bỗng thấy bồn chồn trong dạ, lóng ngóng đi tới lui, trong nhà đèn đuốc sáng choang khiến ông ta thấy vững dạ thêm phần nào, vừa định trở lại phòng thì hốt hoảng cực độ khi thấy trên nóc nhà, một sinh vật màu đen, lông bạc ánh kim dài đến vài tấc, đôi mắt đỏ như máu đứng nhìn mình chằm chằm, bèn thất kinh kêu lên. Lính tráng lúc này mới lùng sục khắp nơi thì chẳng thấy gì lạ, ngoại trừ dấu tay máu in trên trần nhà, dẫn đến phòng của mấy người bà con ông hội đồng, bên trong không gì khác ngoài hai cái xác bị lột da mổ bụng.
Khỏi phải nói cũng biết bà hội và ông Tuấn sợ hãi đến nhường nào, phen này điền sản đánh đổi bao nhiêu cũng được, giữ cái mạng là mừng, bèn trong đêm cử người đến quán trọ tìm Thiên Cửu thì thấy y đang say khướt, nằm gục trên bàn.
Gia nhân đem lời thỉnh cầu của bà hội đồng thuật lại hết thì Cửu chỉ cười rồi đáp: "Ba phần tư!", xong rồi gục xuống tiếp.
Thấy bà hội cứ chần chừ không dám quyết, lão Tuấn cùng một số người bà con trong nhà sợ quá, bèn về phòng thu dọn đồ đạc rồi chuồn đi ngay. Xe vừa mới đi chưa xa lắm, từ phía đó vang lại một tràng tiếng la hét, mọi người đổ tới xem thì thấy tất cả đều nhận kết cục y hệt mấy người trước. Bà hội đồng quỳ thụp xuống như người mất hồn, lập tức nhờ người rước Thiên Cửu về hết sức trịnh trọng, đem hết lời lẽ ăn năn hối cải ra van xin. Cửu không nói không rằng viết sẵn khế ước, bắt bà hội ký tên điểm chỉ, chia lại ba phần tư gia sản ông hội đồng để lại, sau đó gửi lại cho bà hội, bảo trong đêm nay mọi chuyện sẽ êm xuôi.
Dứt lời y đứng dậy đi vào những căn phòng hiện trường, tìm kiếm thứ gì đó, chỉ thấy có mấy sợi lông màu bạc, Cửu xem qua rất kỹ, sau đó đưa lên mũi ngửi. Án Sát Khẩu Quyết có nói, phàm là sinh vật sống, cơ thể sẽ có bốn loại mùi: mùi phát ra từ da, mùi phát ra từ lông tóc, mùi phát ra từ máu thịt và mùi của chất thải. Bốn loại mùi ấy tượng trưng cho bốn yếu tố: mùi da do môi trường, mùi lông tóc do xương tủy, mùi máu thịt phát ra do ăn uống, mùi chất thải phát ra do bệnh tật.
Dựa vào bốn thứ mùi ấy phần nào suy đoán được nơi ở, điều kiện sống; thức ăn hàng ngày sẽ biết được giàu nghèo; bệnh tật nói lên cách sinh hoạt, suy luận thêm nữa dĩ nhiên chân tướng càng lộ rõ. Phương thức dùng mùi này được gọi là Trực trong Án Sát Khẩu Quyết. Tuy nhiên có một điểm lạ là không thấy dấu chân để lại. Phàm là Án Sát, án liêu trai ma quái vốn dĩ gặp không ít, hồ tinh hay xà tinh dùng ma thuật mê hoặc lòng người, đến thời hạn thì hút hết sinh khí, nạn nhân chết đen như xác khô, hiện trường không có dấu chân. Rõ ràng hung thủ mấy vụ thảm sát tại nhà ông hội đồng Sung là một sinh vật sống, những sợi lông tại hiện trường là bằng chứng, vậy thì ắt hẳn kẻ đó phải đứng được. Ngoại trừ vết máu kéo lê ra thì không còn thứ gì in lên mặt đất nữa.
Kỳ thực từ lúc bị bà hội đồng đuổi hôm trước, Thiên Cửu về mướn phòng trọ liền sau đó đi sang làng bên điều tra về thân thế của Tú thị, đến nơi thì cha mẹ cô đều ra đồng cả. Cửu bèn ra ngồi ở quán rượu đầu làng nghe ngóng một chút rồi về, sau đó thì vào rừng chuối, hồi lâu trở ra thì dường như mọi thứ đều đã thông tỏ, Cửu về phòng mà say xỉn cho tới lúc được khiêng kiệu về nhà ông hội đồng. Khế ước đã ký xong, Cửu sai gia nhân chuẩn bị một chậu máu gà rất to, tạt vào tường, chỗ nào cũng loang lổ vết máu kể cả phòng riêng của mọi người, sau đó tắt hết đèn đuốc để Cửu một mình tản bộ trong hoa viên.
Chưa đầy nửa canh giờ đã nghe chó sủa vang dậy mặc dù các đêm trước chúng im như thóc, tiếng sủa hướng về phía phòng bà hội, Cửu lập tức phi đến nơi, đạp cửa tung vào, thấy một bóng đen đang cấu xé gì đó chỗ giường ngủ, Cửu liền châm lửa thì thấy bóng người rất cao to lực lưỡng, khắp người phủ lông bạc. Thứ ấy thấy Cửu vào thì có vẻ sợ, phóng ra cửa sổ chạy mất, nhìn lại giường mới biết, nó chỉ xé được cái hình nhân đang mặc đồ của bà hội mà thôi. Thì ra, Cửu sai người tạt máu gà vào là để át mùi, Cửu sau khi ngửi mùi từ lông thì đoán được đây có thể là dã nhân, chó cảm giác được sát khí sẽ không dám sủa cho nên y dùng máu gà để át mùi đi, chó lúc này chỉ nghe động là sủa. Cửu còn gom tất cả mọi người lại một căn phòng lớn, dặn đóng chặt cửa cho đến sáng, trong đêm thấy bóng đen lại gần cứ việc cho lính dùng súng bắn riết ra là được, lại cho hình nhân mặc áo của bà hội, mục đích làm con quái thú kia không phân biệt được thật giả mà dẫn dụ vào nơi Cửu đặt sẵn.
Bóng người đó phóng ra cửa Cửu tức tốc lao mình theo, rượt đuổi rất sát khoảng cách chỉ chừng vài thước. Rừng chuối buổi đêm âm u tịch mịch, ánh trăng trên cao chỉ soi mờ mờ như tấm thảm vàng nhạt, vậy mà người chạy người đuổi lao như không. Bỗng nhiên, Cửu chạy chậm lại, khoảng cách dần xa hơn đến khi tên quái quay ra sau cũng không thấy được. Nó chạy thẳng đến một cái gò đất nhỏ nằm sâu trong rừng chuối rồi nhổ một cái cây già lên, để lộ một cửa vào, bên dưới có một thông đạo, trông khống giống như người đào mà là do thú hoang tạo nên. Phía cuối thông đạo là căn hầm khá xập xệ và ẩm thấp, bốc mùi hôi thối, nhờ có mấy lỗ trên trần thông lên mặt đất mà ánh trăng rọi xuống được dưới này, trong góc phòng, trên đống rơm là cô Tú đang nằm thở dốc, có lẽ đang sốt cao lắm. Bóng người khổng lồ ấy vừa vào đã chạy ngay đến kế bên, hắn ta chỉ ú ớ không nói được tiếng người, ra bộ lo lắng cho Tú lắm.
Bỗng đâu cả căn phòng sáng lên bởi ánh đuốc bập bùng, Cửu đã đứng ở lối vào tự lúc nào, trên tay cầm theo kim lệnh và án thư. Ánh đuốc soi rõ hình thù kỳ dị đang đứng kế bên Tú, nhìn xa trông như vượn nhưng có mõm dài, hai mắt đỏ ngầu, tay dài ngoằng, lông phủ kín toàn thân màu trông như ánh bạc, biết thấy đúng như suy nghĩ của mình, kẻ thủ ác là loài dị nhân, có thể sẽ không hiểu tiếng người nhưng Cửu vẫn chưa động thủ, cậu ta điềm tĩnh bước đến gần con vật đang tỏ ra hoang mang tột độ kia. Dòng họ Dương lưu truyền hai bảo vật ấy song hành theo các đời Án Sát, chỉ nghe tương truyền nó là vật quý của âm giới, pháp lực lưu hành trong ba cõi đều trấn áp được mọi loại linh hồn chỉ cần đó là thủ phạm, vậy nên tuy Cửu chỉ mang thân hình thư sinh mảnh mai đứng trước quái thú vẫn khiến nó run lên tột độ, vẻ mặt lo sợ đầy khó hiểu.
Lại nói về khi Thiên Cửu lúc thuê phòng xong, trong lúc bỏ đi qua làng bên tìm nhà Tú thị, khi trở về thì vào làng điều tra thân thế Trương thị, điểm mấu chốt trong vụ án vì khi Tú thị từ mộ đó trở về liền thơ thẩn như mất hồn. Nếu với sức của cô ta rất khó để có thể đi đến được tận đây, thay vì men theo con sông của rừng chuối, vốn có nhiều thân cây đổ ngã, kết cái bè nhỏ thì chỉ trong một đêm có thể đi vài chục dặm xa khỏi nơi này. Cửu đoán được có thứ gì đó trong khu rừng hấp dẫn Tú thị, suy tính thì chỉ có ngôi mộ này mà thôi, để điều tra về nó thì chỉ còn cách tìm hiểu về người nằm dưới đó cái đã.
Tiếp theo Cửu vào làng, hỏi về thân thế của Trương thị, chỉ có những cao niên là còn nhớ, chuyện xảy ra đã lâu cho nên khi nhắc lại có ít nhiều sai sót, nhưng bằng nhãn quan của Án Sát, chỉ cần có thông tin là tự chắp nối lại được. Cửu hỏi một hương chức ngoài sáu mươi, người này kể: Trương thị từ ngày về nhà chồng sống hết sức hiếu thuận và cung kính, ai cũng khen là dâu hiền, cha mẹ chồng rất thương yêu, nhưng khổ nỗi mãi chưa có con. Người chồng đợi khi ba mẹ mất bèn có ý định cưới vợ hai, chẳng lâu sau dẫn về một người con gái nhan sắc tuyệt trần, lời nói tựa như chuông ngân, hương thơm như trăm hoa trong vườn, ai nhìn cũng mê mẩn.
Từ ngày cưới vợ hai, người chồng cư xử tệ bạc hẳn với Trương thị, thậm chí xem như người ở trong nhà, khi say sỉn còn lôi ra đánh đập mắng nhiếc thậm tệ vì chuyện không có con. Chẳng bao lâu sau, vợ hai có con trai, Trương thị càng lâm vào cảnh sống không bằng chết. Một hôm, thị đi về nhà mẹ ruột, trên đường đi ngang rừng chuối thì có người thấy thị bị một tên lạ mặt lông lá đầy mình tấn công cưỡng bức bèn hô hoán lên, khi tới đuổi đánh thì chỉ thấy có con chó lớn bỏ chạy, nghi là chó thành tinh.
Về nhà Trương thị có mang, chồng cho đó là nỗi nhục không thể chịu được bèn đuổi ra nhà gia nhân mà ở. Không lâu sau, bụng Trương thị càng ngày càng to ra, người chồng bèn cho uống thuốc để phá cái thai nhưng mãi vẫn không được, đến khi thai lớn gần sinh thì một lần người chồng về trong cơn say, xăm xăm đi thẳng qua nhà người ở, đem Trương thị ra đánh một trận như trời giáng, thị bị đập đầu vào bàn, máu tươi tuôn ra, chốc sau thì tắt thở chết. Người chồng sợ quá vội nói với hàng xóm thị bị bệnh chết đột xuất, đám tang diễn ra sơ sài qua quýt rồi đem vào vườn chuối chôn gấp. Huyệt hạ chưa khô đất thì nhiều người trông thấy có con sói lớn đến bên mộ cào cào vài cái rồi biến mất.
Đêm ấy làng bị đánh thức bởi tiếng la thất thanh từ nhà chồng của Trương thị, người ta xông vào xem thì thấy người chồng bị xé ruột chết tươi, trên giường thấy một con chồn lông đỏ đứt cổ, ai cũng nghi người vợ hai là hồ ly. Từ đó về sau chuyện dần vào quên lãng, cũng như cách người ta quên Trương thị và con sói lớn kia vậy.
Người kia kể đến đó thì bảo là chuyện chỉ có vậy, Cửu liền cảm tạ rồi đi về, kỳ thực là vào rừng chuối tìm mộ hoang. Tuy nhiên y chưa vào đó vội mà ra chợ mua một số dụng cụ cần thiết. Đến bên mộ hoang thì trời đã ngả chiều, xem xét qua thấy đất đắp sơ sài, chỉ có tấm ván khắc vài dòng chữ: "Trương Tuyết Liên chi mộ", một bên mộ sụp xuống khiến Cửu chú ý, đưa mắt nhìn thì thấy một dấu vết khả nghi. Xung quanh mộ có lót mấy phiến đá xanh, có một phiến bị lệch ra, nằm bên phần mộ bị sụp, Cửu liền trưng kim lệnh, lầm rầm khấn vái người nằm bên dưới xin mạo phạm mộ phần để phá án, đoạn lấy cây bới đất lên, đào đến tận quan tài bên dưới.
Quan hết sức sơ sài, đóng bằng bốn tấm ván gỗ xoài, tới giờ đã mục ra như bùn đất. Cửu thấy từ chỗ y đào có thể ba mươi năm trước cũng có người theo hướng đó mà đào xuống, đâm thủng quan tài lấy một thứ gì từ trong đó ra, thứ đó Cửu đoán khá nhỏ vì lỗ hổng còn để lại trên quan tài không lớn, có dấu cào tuy đã rất mờ và khó nhìn ra. Cửu đốt đèn soi vào trong, xương thịt và y phục của Trương thị đã phân huỷ, chỗ quần thị có dính vết máu, cảm thấy chỉ còn một điều khó hiểu, Cửu bèn khấn với Trương thị rằng xin mượn đầu lâu, sẽ đền đáp xứng đáng. Nói đoạn, Cửu bới rộng cái lỗ đào khi nãy ra, cạy nắp quan rồi đem đầu lâu đặt lên vải, đoạn dùng đất sét phủ kín mặt, lấy da vùng bụng heo con đắp lên, loay hoay chốc sau đã phục dựng lại khuôn mặt của Trương thị khi còn sống. Trong Án Sát Khẩu Quyết lưu truyền trong dòng họ Dương thì đây được gọi là Nhập, chuyên dùng để khôi phục lại các tử thi bị biến dạng, cháy đen hoặc bị mất phần thân xác. Đến đây, Cửu bèn sắp đặt mọi thứ trong đầu, những chuyện xảy ra đã đoán được tám chín phần, chỉ còn bắt tận tay nữa là xác minh thực hư.
Lần đó Trương thị nghi bị con sói tinh cưỡиɠ ɧϊếp đã mang thai loài ác nghiệt, đẻ ra hình thù kỳ quái, nửa người nửa sói, sống lẩn lút trong rừng chuối này. Con sói đến bên mộ Trương thị, đào mộ, lấy đứa con ra nhưng có lẽ nó đã chết non trong quan. Sau khi hạ sát người chồng và người vợ nghi là hồ ly, con sói ẩn cư trong rừng chuối, dần dà mang hình hài giống người, cao lớn dị thường, có lẽ trong một lần thấy Tú thị đứng trên ban công, nhìn y hệt Trương thị nên sinh lòng mơ tưởng, lần Tú thị trốn đây, Cửu cho rằng chính xác thì thị bị con sói tinh kia bắt cóc thì đúng hơn, thời gian chạy chưa xa, chân yếu tay mềm thì khó mà chạy xa đến vậy được, với lại Tú chạy ra ngoài sẽ hợp lý hơn là ở trong đấy.
Khi bắt cóc Tú thị, thị có thể vùng chạy vì sợ hãi, con sói biết được bèn dùng thuật nhϊếp hồn, khiến thị khi trở về thì như người ngơ. Lần đó có lẽ Hội đồng Sung đem người đến bắt Tú thị lúc con sói đi mất, bằng không thì với vài tên gia nhân bình thường thì sói tinh xé xác hoàn toàn đơn giản. Sau khi quay về thấy Tú thị bị bắt, nó liền đến nhà hội đồng Sung còn chứng kiến Tú thị bị đánh đập hành hạ liền lao tới xé xác ông hội đồng, do chân nó có lớp đệm thịt rất dầy phủ lớp lông cứng nên nhìn sẽ không thấy dấu. Mọi chuyện về sau thì đã rõ.
Lúc rượt đuổi trong rừng chuối, nhận thấy nếu rượt sát quá, con quái sẽ không dẫn mình về hang ổ, Cửu bèn chạy chậm lại, ẩn sau các tán chuối, theo dõi từ xa, nhờ vậy mà đến được hang sói tinh. Nhận thấy Tú thị đang nằm thoi thóp, mọi chuyện dần sáng tỏ, Thiên Cửu trưng án lệnh ra, sói tinh tuy không nói được tiếng người, nhưng quyền uy của án thư trong tam giới thiên địa nhân uy quyền lừng lẫy hẳn nó có nghe nói đến, vốn bản tính chưa hẳn là loài yêu nghiệt không biết quay đầu, nó liền sụp xuống kêu khóc.
Thiên Cửu thấy tình huống này cũng thật khó xử, căn cứ luật nhân quả của tạo hoá ác nhân phải bị trừng trị, nhưng bản án từ xưa tới nay y chưa tuyên cho sói tinh không nói tiếng người bao giờ. Tuy nhiên, Cửu phát hiện ra, con sói tinh ấy chỉ bị câm do mất lưỡi từ bé, tiếng y nói nó vẫn hiểu được, nãy giờ cứ ú ớ chữ được chữ không, ra chiều đã rất ăn năn hối hận, chỉ xin cứu sống cho Tú thị. Thiên Cửu đem vụ án ra hạch tội, sói tinh đều cúi đầu thừa nhận, khai là do tình cảm với Trương thị vẫn còn, thấy Tú thị nhìn giống Trương Tuyết Liên như đúc, lại bị hội đồng Sung đánh đập, phẫn nộ xưa chợt ùa về, vì vậy mà gây ra đại tội, biết số mình cũng đã tận, bèn chịu mọi hình phạt mà Án Sát đưa ra.
Thiên Cửu vạch sổ ra xem, sinh mệnh của sói tinh quả thực cũng đã cạn, y bèn phán một án tử, phải chặt một tay về trình với bên bị hại, sói tinh quỳ sụp ra vẻ cảm tạ rồi vào góc phòng bế Tú lên, để ra trước cửa hang, khi Thiên Cửu đi ra thì nó cũng dùng cây bít lối đi lại, ở trong chỉ vọng ra tiếng sói tru rất mãnh liệt, lịm dần rồi tắt hẳn, chỉ còn tiếng ư ử hấp hối. Án lệnh đã thi hành xong, Cửu bèn cõng cô gái ra nhà một lang y đầu làng, thấy ông là người trượng nghĩa thì mới nói việc cứu chữa cô gái đã xong xuôi, mời ông đi theo Cửu, cho rất nhiều tiền dặn giữ kín mọi chuyện, xong rồi trở vào làng, đến tối mới quay lại, thấy tình hình cô bé đã ổn, Thiên Cửu mới bốc thêm vài thang thuốc, sau đó thuê xe đem cô gái đi đâu mất.
Lại nói chuyện bà hội đồng, lúc Thiên Cửu quay lại lấy những điều đã cam kết trong khế ước, khi trưng ra cánh tay lông lá gớm ghiếc của sói tinh, ai nấy đều thất kinh không dám nhìn. Bà hội thì ngồi như mất hồn, ba phần tư gia sản phải trao cho Cửu, tuy nhiên thị ta còn an ủi rằng, với một phần còn lại cũng đủ để sống cuộc sống sung sướиɠ quãng đời còn lại. Giấy tờ bàn giao đã xong xuôi, Thiên Cửu đem hết ruộng đất ra chia lại cho dân nghèo trong làng, tiền mặt thì lên huyện mua rất nhiều gạo thóc về phát, dân làng ai cũng cảm tạ, tất cả đều nhờ một tay vị lang y nọ, Cửu trọng thưởng rất hậu nhưng ông một mực chối từ, dùng tiền đấy mà quyên góp chung vào với Cửu, khiến Cửu rất nể trọng. Dân làng được ban phát ruộng đất và lúa thóc, coi Cửu như là bậc tiên thánh giáng phàm, cứu nhân độ thế. Trước khi Cửu quay đi, chỉ mặt bà hội đồng nói rằng: "Khế ước hai bên đã phân định, tôi đi, nhưng bà ăn ở bất nhân bất nghĩa, tôi e là không sớm thì muộn cũng bị quả báo, chết trong nghèo khó!"
Quả nhiên ít lâu sau, một đêm mưa gió, sét nổ ầm ầm, đánh trúng vào nhà của bà hội làm mọi thứ cháy ra tro, gia sản phần còn lại vì thế cũng tiêu tan hết, về sau trở thành ăn xin. Cũng trong đêm đó, phần mộ hội đồng Sung cũng bị sét đánh cháy nghi ngút, ngôi mộ không hiểu vì sao lại bị sụt lún, quan tài vỡ tan, người ta đến xem thì thấy trên đó có miếng ngói khắc mấy chữ "Hội đồng Sung, sống bất nhân, làm chuyện bất nghĩa, tội ác thấu trời xanh, hình phạt chết không toàn thây thiết nghĩ chưa răn đe được người đời, nay đày làm ngạ quỷ, trăm kiếp không được luân hồi!", ai ai cũng lấy làm khó hiểu nhưng chẳng ai biết người nào viết mấy câu đó.
Về phần Thiên Cửu, đêm hôm ấy chở Tú thị về nhà ba mẹ ruột, vừa thấy con gái, hai ông bà suýt chút nữa thì ngất xỉu do cứ nghĩ cô chết rồi, hiện thành ma quỷ về thăm nhà, khi được Tú thị giải thích mới vỡ lẽ, cám ơn Thiên Cửu rối rít, nhưng đột nhiên nhớ lại chuyện gì đó bèn đột ngột kéo con gái vào trong, ông bố cũng ân cần mới Cửu vào nhà, nhìn trước ngó sau rồi mới đóng cửa lại, đang đi bỗng kim lệnh từ áo lại rơi ra, Cửu ngầm biết được ý trời muốn cậu ở lại làng này rồi.
Tú thị được mẹ dẫn ra sau tắm rửa, lát sau dọn lên một ít rượu thịt cho ông bố và Cửu, Cửu cố từ chối nhưng thấy họ nhiệt tình quá nên cũng ở lại đối ẩm. Người bố tên là Lê Hiểu Đồng, có hai người con, Tú và một người em trai tên Độ. Làng này gọi là làng Quý Hiệp, vẫn thuộc Tổng Quý Thới. Gia đình ông Đồng mới chuyển về đây được hơn mười năm, phần lớn những người trong là đều thuộc họ Cao. Gia tộc này có luật lệ là đều gả con gái trước mười ba tuổi, đều là ép gả, nhà nào không chịu thì bị phạt vạ rất nặng, thậm chí đuổi khỏi làng, xoá tên khỏi gia phả. Năm nay có hai nhà bị bắt con là hộ ông Cao Thuần Trí và Cao Văn Kha. Hai vị Cao phu nhân ngày đó đều sinh cùng ngày cùng giờ, đều đẻ sinh đôi, hai nhà là bốn đứa, nhìn giống nhau như đúc. Hồi đầu xuân là đến tuổi bắt gả, hai nhà tuy cách xa nhau nhưng lúc này đều nói với cha mẹ mình rằng nếu bị ép gả theo tục lệ của họ thì sẽ tự tử.
Cha mẹ hai nhà nghe sợ quá, nhưng luật lệ họ Cao từ xưa tới giờ đều là vậy, không thể làm khác được, hai người bố gặp nhau bàn định đút lót cho tộc trưởng nhưng liền bị ông ta mắng chửi rất thậm tệ, còn nói rằng hôn lễ đã được ấn định với hai danh gia vùng Bạc Liêu, nếu trốn tránh thì bên nhà trai không bỏ qua, thậm chí còn có thể gϊếŧ cả nhà họ!
Hai ông bố nghe xong sợ quá, dù con mình một mực cự tuyệt hai nhà vẫn quyết. Ngày hôn lễ, bốn cô dâu không khóc cũng chẳng cười, lúc chuẩn bị lên xe về nhà chồng đều ngoảnh mặt lại, lạy cha mẹ mình rồi nói: "Con bất hiếu, không thể phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, hẹn kiếp sau báo đáp."
Quả nhiên về nhà chồng không lâu sau, hai đứa con của ông Trí đều chết một cách kỳ quái, sáng vẫn sinh hoạt bình thường đêm đến đang ăn cơm thì đổ gục ra tắt thở. Điều lạ là đêm hôm trước lúc hai vợ chồng Trí đang ngủ bỗng nhiên cùng nằm mộng thấy hai đứa con gái mở cửa vào, quỳ xuống lạy rồi nói: "Vĩnh biệt cha mẹ", tỉnh dậy hôm sau thì đã nghe tin từ Bạc Liêu đồn về. Hai hôm sau đến vợ chồng Kha nằm mộng tương tự, quả nhiên khi thức dậy cũng nghe tin con họ chết y hệt hai người kia.
Họ Cao thấy sự lạ, nhưng cho đó là trùng hợp, vì vốn dĩ bốn người này khi sinh ra đã trùng hợp lạ thường, Diêm La có gọi tên e cũng là chung nhóm, từ đó không thấy bàn tán nữa. Trong mộ phần họ Cao dành riêng một khu chôn cất những cô nương yểu mệnh này. Chuyện xảy ra ba tháng trước, vốn dĩ mọi chuyện dần lắng xuống, đến bảy hôm trước, tộc trưởng Cao Ngọc Khang nằm mộng, thấy bốn người này đứng đầu giường chỉ vào mặt mình quát: "Chú ác lắm, chú phải trả giá bằng cái mạng đó!", tỉnh dậy mình mẩy Khang đầm đìa mồ hôi, giấc mộng không hiểu sao chân thực đến kỳ lạ, tựa như vẫn thấy mùi hương còn thoảng lại.
Lão Khang hoảng sợ, vội mời thầy cúng về trục vong, nhưng tìm mãi không trục được, bèn đuổi tay tầy pháp về, đến đêm đang làm việc trong thư phòng thì hét lên, vợ chạy vào thì đã thấy cổ họng bị rạch, máu tươi phun ra như xối, trên bàn có tờ giấy ghi chữ "Quỷ nương đã về" bằng máu tươi. Tưởng như mọi thứ đã xong xuôi, ngay đêm hôm sau, đến vị hương chức trong hội tộc cũng bị cắt cổ chết tương tự, dĩ nhiên vẫn có tờ giấy và dòng chữ như trên.
Họ Cao khỏi phải nói, ai ai cũng hoang mang cực độ, bèn tập hợp lại, quật mả bốn người con kia lên thì thấy quan tài rỗng không, chỉ còn bộ quần áo liệm, dấu tay cào vào bên trong quan tài giống như họ thực sự đã thành cương thi quay về báo oán. Liền bốn hôm sau, đêm nào cũng có người trong tộc họ Cao bị cắt cổ chết thảm, tiếng kèn đám ma vang lên không ngớt, khói nhang ngập cả xóm. Hễ nghe tiếng ông thầy cao tay ở đâu là liền mời về nhưng hơn mười ông, ông nào cũng lắc đầu bó tay, không trừ được vong. Những người còn lại trong họ tộc lục tục kéo đến mộ phần bốn cô gái, khóc lóc van nài thảm thiết, lễ vật dâng cúng rất hậu, còn định xây miếu thờ, chỉ xin ứng nghiệm mà đừng gϊếŧ ai nữa, nhưng máu vẫn cứ đổ.
Ông Đồng khi nãy tỏ ra lo sợ, kéo Thiên Cửu vào trong, phần vì làng này cũng đã nghe tin Tú bị hại chết, còn là nghi phạm gϊếŧ hội đồng Sung, nay thấy Tú trở về, họ Cao trong cơn cuồng loạn thế nào cũng đến sinh chuyện, bèn giấu riết Tú vào nhà trong, căn dặn Cửu chớ để lộ chuyện này ra. Cửu bèn cười, nói: "Lê tiên sinh lại lo xa, Cửu tôi lấy chuyện giải án làm vui, dĩ nhiên cũng biết cách hành xử, chuyện này tiên sinh cứ yên tâm." Đêm ấy Cửu xin ngủ lại nhà ông Lê, hẹn sáng mai sẽ sang nhà họ Cao dò la tin tức.
Nhà họ Lê nằm quay lưng với một rặng tre, sau rặng tre là một con kênh, bên kia kênh phía xa là Cao gia, xuôi dòng kênh xuống phía nam là từ đường và nghĩa địa dòng họ. Bấy giờ là canh bốn, Thiên Cửu bỗng nghe tiếng kim lệnh rơi xuống, giật mình tỉnh giấc thì ra chỉ là giấc mộng, bèn trở mình khó ngủ, ngồi dậy châm trà uống. Trăng bên ngoài tuy không tròn nhưng lại rất sáng, soi rõ cảnh vật phía xa nhuốm phần âm u ghê rợn, một bóng người nhỏ nhắn mặc áo đỏ từ Cao gia như bay lướt ra, hướng về phía nghĩa địa rồi mất dạng, lúc ấy từ phía tư trang nhà họ Cao vang lên tiếng kêu khóc thất thanh, lại một người nữa bị cắt cổ!
Thiên Cửu tức tốc khoác áo vào, lao ra đường nhưng không phải chạy về phía Cao gia mà là về nghĩa địa, đến nơi chỉ thấy tứ bề là mồ mả, khung cảnh thê lương vang lên tiếng cười ma quái như thách thức Án Sát Tiên Sinh - Dương Thiên Cửu!
- 🏠 Home
- Linh Dị
- Dị Giới
- Án Sát Tầm Hồ
- Chương 2: Quỷ nương báo oán