Chương 1: Tổ tông và đời cha của A Nguyệt

Đại Cầm quốc năm thứ mười ba Thiên Hữu, hai phủ bảy châu huyện thiên tai lũ lụt, ngàn khoảnh[1] ruộng tốt, vạn dặm dân chúng đều trở thành nạn nhân, chuyển nhà chạy nạn, dời nam chạy bắc.

[1]Khoảnh: 1 khoảnh = 100 mẫu Trung Quốc, chừng 6,667 ha

Quan viên địa phương cấp báo triều đình, Hoàng Đế coi là điềm báo chẳng lành, đích thân tế tự, phái khâm sai tiết chế, toàn diện chắn băng[2]. Vì trấn an lòng người, thuế lương miễn một năm.

[2]Chắn băng: căn cứ vào quy luật sinh tiêu băng của sông lớn, chọn lựa biện pháp tương ứng, công việc chống hoặc giản bớt nguy hại.

Trong thành kinh sư, đại trạch Mộ gia.

Đang là cuối xuân, mưa rơi dữ dội hơn năm ngoái. Đập xuống mái cong đấu củng[3], cùng với các loại tiếng mưa rơi đan xen, vang dội đất trời, người ở trong nhà nghe cũng thêm vài phần tạp niệm.

[3]Đấu củng: một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.

Lão thái thái Mộ gia quỳ trên bồ đoàn, khẽ gõ mõ tụng kinh cầu phúc. Lão thái thái là đích thứ nữ An Dương bá, từ nhỏ được nuông chiều, bậc cha chú đều là nhân vật hiên ngang, tính tình xử sự không sợ hãi lại mang theo sự kiêu căng ngạo khí đặc hữu. Sau khi lấy chồng, mẹ chồng cũng chẳng quản bà lắm, có thể được xem là mọi chuyện hài lòng.

Đợi sau khi chính mình làm mẹ chồng, lại có một chuyện không hài lòng.

Mộ gia là thế gia rất có danh vọng ở Đại Cầm quốc. Năm mươi năm trước thế cuộc rối loạn, tổ tiên Mộ gia tìm đến Triệu gia ở Nguyên Châu, theo chủ bình định chiến loạn. Sau khi lãnh thổ xây dựng tường thành, tiến có thể công, lui có thể thủ, tạo phúc một phương.

Mà Mộ lão thái gia cũng là đại tướng, cùng với lão thái thái Mộ gia có chung một trai bốn gái. Con trai Mộ Tuyên, tuổi còn trẻ đã theo cha chinh chiến sa trường. Sau lão thái gia tử trận, Mộ lão thái để cho con trai thành thân kéo dài hương khói. Ai ngờ tại biên thành Mộ Tuyên quen một cô gái mồ côi, chỉ nguyện cưới nàng, Mộ lão thái không nguyện cô nương nghèo hèn tên là Phượng nương kia vào cửa. Cứ kéo dài suốt, đợi Mộ Tuyên hai mươi có lăm, Mộ lão thái cuối cùng mới buông miệng, để cho Phượng nương qua cửa.

Chiến loạn biên cương bình định, Mộ Tuyên dẫn Phượng nương về kinh, cầm sắt hòa minh. Đáng tiếc năm năm trôi qua, thân thể cũng không có động tĩnh. Lúc này Mộ lão thái không bằng lòng, lời mặn lời nhạt nói Phượng nương vào cửa Mộ gia không có mấy gánh của hồi môn, càng không phải đại gia khuê tú làm mất mặt bà, rất bất mãn. Cuối cùng lấy thất xuất chi điều[4] không con ra nói, ép buộc Mộ Tuyên bỏ nàng.

[4]Thất xuất: Không con, da^ʍ, không thờ cha mẹ chồng, lắm điều, trộm cắp, ghen tuông, bị bệnh khó chữa.

Không quá nửa tháng, đã nhét người mới vào trong phòng Mộ Tuyên, chọn Đinh thị, con gái út nhà Hàn Lâm làm kế thất.

Mộ Tuyên không thể ngỗ nghịch, trong lòng chua xót, ngay đêm tân hôn uống rất nhiều rượu, người bên cạnh không để ý một cái, đã không thấy ông ta, vội vàng đi tìm. Hôm sau mới phát hiện ông ta ngã vào trong lòng một đứa nha hoàn, Mộ lão thái bèn thuận thế nâng nha hoàn kia làm di nương. Đuổi Phượng nương đi, lại tìm cho con trai một thê một thϊếp, khẩu khí này cuối cùng mới thuận lợi.

Tần ma ma sớm đã đứng yên ở trong Phật đường hồi lâu, tiếng mưa rơi lộp bộp, nghe thấy tâm thần không yên. Thật vất vả nghe thấy Mộ lão thái ngừng tiếng gõ mõ, mới nhẹ giọng, sợ quấy nhiễu Phật tổ, quấy nhiễu bà ta: “Trừng nghĩa phủ bên kia cũng đã truyền nạn úng.”

Động tác tay của Mộ lão thái hơi ngừng, mặt lộ vẻ từ bi: “Bảo đầu bếp chuẩn bị nửa tháng đồ ăn chay, đừng thêm dầu tanh.”

Tần ma ma đáp lại, cẩn thận nói: “Vậy thái thái… Phượng nương kia, khi đi nhưng là đi về phía Trừng nghĩa phủ…”

Thấy bà ta không có động tĩnh gì, Tần ma ma thầm than quả thật là người đi trà lạnh, Phượng nương làm con dâu tận tâm hầu hạ năm năm, lại rơi vào chân trước vừa đi, chân sau đã bị mẹ chồng quên không còn một mống, không nhìn ra chút tình nghĩa nào.

Mộ lão thái chẳng hề đáp lại, gõ một lúc lâu, mới mở miệng, âm điệu rất lạnh nhạt: “Nàng ta đã không phải người Mộ gia ta, sinh tử có quan hệ gì với ta đâu. Thiếu gia bên kia như thế nào?”

Tần ma ma lại là âm thầm thở dài, đáp: “Phu xe đưa Phượng nương rời đi kia, đến bây giờ cũng không có tin tức. Lúc trước ngài để cho hắn sửa lại lộ tuyến đưa đi, lúc Phượng nương rời nhà thiếu gia cũng sắp xếp tiền tài cho không ít, nô tỳ sợ… phu xe kia đoạt tiền bỏ lại Phượng nương.” Bằng không sao lại một tin chính xác cũng không có.

Mộ lão thái khẽ nhíu mày, thầm nghĩ thế cũng tốt, phu xe không trở lại, Mộ Tuyên muốn tìm Phượng nương, cả đời cũng không tìm được, lại than: “Ai có thể nghĩ tới thiên tai đột nhiên tới, ông trời chớ trách ta nhẫn tâm, chẳng qua là nàng ta bạc mệnh mà thôi.”

Đơn giản hai câu, Tần ma ma nghe xong lạnh cả người, thiệt cho là người ăn chay niệm Phật, tâm tư, lại có thể xem là tàn nhẫn. Chỉ là tội nghiệp Đại thiếu gia bà nhìn từ nhỏ đến lớn, tội nghiệp Phượng nương thôi.

Trừng nghĩa phủ liên tục gặp tai hoạ, xác chết đói khắp nơi, dân chúng di chuyển hàng loạt.

Địa phương cách nơi này ngoài trăm dặm, tuy rằng mấy ngày liên tiếp mưa rơi, nhưng bởi vì địa thế khá cao, chưa chịu nạn nước lụt.

Đám phụ nhân ngõ Thanh Vân thôn Đông, thấy mưa ngừng rơi, ánh nắng nóng sáng bỗng nhiên rắc khắp rơi, bèn mang ghế, mẹt ra ngoài, ngồi ở cổng chọn đậu tán gẫu.

Ở nông thôn, phụ nhân giọng khá lớn, lại là nhà kề nhà, đẩy cửa là có thể thấy được một nhà khác, vừa chọn vừa nói chuyện, không mảy may ảnh hưởng.

Đang nói chuyện tùy ý, lại một nhà cửa gỗ mở ra, một lão phụ đi ra. Thẩm nương nhà bên nhìn thấy, cười gọi: “Lão tẩu tử không thừa dịp ban ngày thời tiết tốt, đem hạt đậu cũ đi chọn? Ban đêm giày vò sẽ hại mắt.”

Lão phụ nói: “Chờ được mưa tạnh cũng chờ đã lâu, phải đi ra sau núi tìm chút thảo dược, cho tiểu nương tử uống.”

Người khác hỏi: “Tiểu nương tử kia còn chưa tỉnh?”

“Lúc nãy vừa tỉnh, hỏi nói, nói là từ chỗ Trừng nghĩa phủ chạy nạn tới, li tán với phu quân, thật là đáng tiếc… Cũng đã mang thai, chính nàng lại không biết, đáng thương ghê.”

Phụ nhân tuy rằng lễ thô lắm lời, nhưng nghe thấy việc này, rốt cuộc vẫn thổn thức cảm thán một phen: “Gia đình chạy nạn đến thôn chúng ta cũng không ít, cô nhi quả phụ cũng có, nhưng giống như tiểu nương tử kia, không khỏi quá thảm rồi nhỉ. Nếu như phu quân không tìm đến, bảo nàng ấy sống như thế nào.”

Lão phụ trong bụng cảm khái, trái lại có lòng riêng. Bạn già đi sớm, lại không có con cái, hôm qua lên núi tìm dược trợ cấp kế sinh nhai, trên đường gặp một nữ tử ngã xuống đất ngất đi, nhìn quần áo nàng là chạy nạn mà đến, bên cạnh cũng không có thân quyến, bèn cứu nàng trở về, chờ nàng tỉnh, nhận làm con gái cũng không sao, mai sau lo ma chay cho mụ. Hôm qua mời lang trung chân đất đến, kiểm tra ra có thai, lại càng vui vẻ, cực lực khuyên nàng giữ lại đứa nhỏ này.

Lúc trước nói là đi tìm dược, thực ra là Phượng nương viết một phong thư, nhờ mụ tìm người đưa đi Mộ gia ở Kinh thành. Trượng phu của lão phụ là một tú tài nghèo kiết hủ lậu, mụ nhờ thế cũng nhận được ít chữ, đi đến chỗ không người, lấy thư xem, lại là báo cho nhà chồng biết chỗ ở của nàng, còn nói đã có thai, vì con đưa ra lời thỉnh cầu gương vỡ lại lành. Lão phụ cân nhắc một hồi lâu, trăm chiều cân nhắc, vẫn nhẫn tâm đem xé bỏ thư.

Lúc này Phượng nương đang nằm trên giường nhỏ ở nông viện, chờ Mộ Tuyên tới đón nàng. Lấy tính tình của nàng, thật sự không muốn trở lại thế gia không có chút tình người nào kia nữa, đối mặt với mẹ chồng tâm lạnh như vậy nữa. Nhưng một nữ tử như nàng, có thể nuôi sống đứa nhỏ? Lúc trước có ngân lượng Mộ Tuyên cho, nhưng không ngờ bị phu xe kia đoạt mất, bỏ lại nàng ở dã ngoại, hai tay trống trơn làm sao nuôi con khôn lớn? Nàng không dám nghĩ, chỉ là nghĩ một chút, đã muốn rơi lệ.

Nhưng bụng này lớn dần, thư đi ba phong lại không chờ được Mộ Tuyên. Hỏi lão phụ giao thư này cho người nào, thấy mụ nói quanh co, bèn nghi mụ chưa đưa thư đi. Một ngày vụиɠ ŧяộʍ viết một phong, tìm người đưa đi kinh thành.

Kinh thành, Mộ gia.

Mộ lão thái vừa dùng xong bữa sáng, tâm tình vô cùng vui vẻ. Không nghĩ tới Phượng nương qua cửa năm năm không có thai, nha hoàn kia chỉ hầu hạ một đêm lại có, tuy nói cũng không phải đích xuất, nhưng ít ra bà ta là có chắt để bế rồi.

Quản gia nhận phong thư ở cửa, tuy bên trên viết là Mộ Tuyên nhận, nhưng nhìn chữ viết có chút quen mắt, quản gia không dám chậm trễ, trực tiếp đưa đi trong phòng Mộ lão thái —— lương tháng là lão thái thái phát.

Tần ma ma vừa thấy chữ kia, trong lòng giật mình, chữ viết này, rõ ràng là của Phượng nương mà.

Mộ lão thái cầm thư ra xem, cũng nhận ra. Trong bụng nặng trĩu, ngay cả xem cũng chẳng xem, ngay lập tức đưa tay xé: “Chẳng lẽ còn định khóc sướt mướt trở về. Chuyện này không thể để cho thiếu gia biết được, bằng không xé nát miệng các ngươi.”

Tần ma ma vội vàng lên tiếng đáp ứng, cúi người dọn dẹp giấy vụn ra ngoài. Thừa dịp mưa lớn, đem đổ toàn bộ giấy vụn kia vào trong cống.

Vụn giấy chậm chạp bay bay rơi xuống, một lát đã bị nước thấm ướt cuốn đi. Tần ma ma cúi người nhìn, cũng nhìn ra một chút bi thương, thấy một mảnh vụn giấy rơi vào trên giày, cầm xuống ném, nhìn thấy hai chữ “Có hỉ”, đã nghĩ tới, sợ lại là những lời kiểu kiểu “Vẫn chưa từng có hỉ” mà thôi, ở Mộ gia này, lão thái thái và Phượng nương nói nhiều nhất chính là chuyện này.

Than nhẹ một tiếng, nâng tay buông ra, đã ném một mảnh giấy cuối cùng vào trong cống, chớp mắt bị mưa cuốn biến mất.

Qua nửa tháng, Phượng nương vẫn chưa nhận được tin tức. Lão phụ đã biết chuyện nàng lén tìm người truyền tin, lúc ấy chột dạ không dám quở trách, thời gian trôi qua rất lâu, đã không có khả năng hồi âm. Cũng không chột dạ nữa, lạnh lùng nói: “Ngươi, nữ oa tử này, ta hảo tâm đối đãi ngươi, ngươi lại nghi ngờ ta, đúng là cứu sói mắt trắng.”

Trong lòng Phượng nương đã hết sức khó chịu, nhưng một cô gái mồ côi như nàng, Mộ gia lại không để ý tới nàng nữa, chẳng lẽ muốn nàng trở mặt hay sao? Đành phải luôn miệng xin lỗi, cầu xin mụ tha thứ. Thấy mụ không chịu nhả ra, cân nhắc một phen, mới nói: “Nếu ngài không ghét bỏ, Phượng nương nhận ngài làm mẹ ruột nhé, không đi nữa.”

Lão phụ không nhịn được vui mừng, kéo tay nàng nói: “Vậy cũng tốt, cứ yên tâm ở lại nơi này.”

Phượng nương cười cười, chua xót vô cùng.

Phượng nương tay chân chịu khó, tuy rằng ưỡn bụng to, lại thu dọn trong ngoài gọn gàng. Tính tình lại dịu dàng, vô cùng tốt với hàng xóm láng giềng.

Trong mấy gia đình chạy nạn đến đây, thôn nhân thích nhất chính là Phượng nương. Người tới cửa làm mối hán tử độc thân cho nàng cũng không ít, dù sao chuyện nàng đi gửi thư cho nhà chồng mọi người đều biết, chậm chạp không đến, chỉ sợ cũng gặp nạn rồi đi, nghĩ tới để tang xong tái giá cũng được.

Nhưng lão phụ không muốn, sợ nàng bỏ lại mình. Phượng nương cũng không muốn, nói chờ trượng phu tìm đến, vừa chờ một cái, đứa nhỏ liền xuất thế, đặt tên là Đổng Thiều Hoa.

“Vắng Đông quân hết thiều hoa, mùi hương lạnh lẽo vườn nhà có thu[5]“. Tuổi xuân đẹp nhất của nàng bị mất cho Mộ gia, nay nàng đã tìm nơi khác yên thân gửi phận, càng hiểu được Mộ gia tuyệt tình, không nhớ nhung nữa, chỉ nguyện con trai Thiều Hoa sống bình yên vô ưu.

[5]Trích trong bài thơ ‘Mộ xuân cảm hoài’ của Đới Thúc Luân:

Tiếng kêu con cuốc gọi sầu

Cố viên đâu đó lên lầu thử coi

Hết xuân hoa rụng cánh rời

Núi sông tiều tuỵ khác hồi ngày xưa

Quạt ca trăng sáng còn lưa

The mây áo múa vẩn vơ đến giờ

Vắng Đông quân hết thiều hoa

Mùi hương lạnh lẽo vườn nhà có thu

(Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995)

Qua một tháng, Mộ gia kinh thành, di nương cũng sinh hạ con trai cho Mộ gia. Năm sau, kế thất Đinh thị có thai, sinh hạ đích tử, sau đó lại sinh hai con gái.

Nhoáng một cái, đã qua mười sáu cái đầu năm.

Lão phụ đã mất từ lâu, Phượng nương một ngày ngã bệnh, cũng không còn nữa.

Sau khi mẫu thân mất, Đổng Thiều Hoa trôi qua cuộc sống nghèo khó quạnh quẽ. Thường ngày gian khổ học tập, lấy bán chút tranh chữ mưu sinh.

Ngày hôm đó cầm chậu gỗ đi ra sông giặt quần áo, đang là mùa đông khắc nghiệt, nước sông lạnh đến thấu xương. Đổng Thiều Hoa sớm đã thành thói quen, nhìn là anh thư sinh tuấn tú, nhưng thể cốt lại cường tráng. Vừa ngâm ướt quần áo, cầm chày gỗ, lại thấy mặt sông xa xa phập phồng trôi tới cái gì đó. Đứng dậy nhìn kỹ, không khỏi kinh hãi, rõ ràng là một người.

Không để ý nhiều như vậy, ném chày gỗ lội nước đi qua luôn, hắn rét run run. Một phát giữ được người nọ, cứu lên bờ, chậu gỗ của mình đã bị nước trôi đi từ lâu rồi. Mặt nhăn dúm nhìn lại, không khỏi ngây người.

Cô nương này trông vô cùng xinh đẹp, trên mặt đã bị đông lạnh xanh tím, chỉ là xiêm y trên người thật sự có chút quái dị. Giờ ôm đi y quán không ổn, không đưa đi cũng không ổn, đang buồn khổ, Bàn thẩm nhà bên cạnh đến giặt rửa, Đổng Thiều Hoa bèn nhờ nàng đưa về chăm sóc.

Ban đêm đang uống canh suông nhạt thếch, Bàn thẩm liền gõ cửa: “Cô nương kia tỉnh rồi.”

Đổng Thiều Hoa qua thăm, đôi mắt sáng to của cô nương kia tràn đầy kinh ngạc, một lúc lâu sau mới phun ra một câu với mọi người “Chẳng lẽ… tôi xuyên rồi?”

Ai cũng nghe không hiểu cô đang nói cái gì.

Với lại, chẳng ai ngờ rằng, cô nương kia bị hỏng đầu óc, chuyện cũ quên hoàn toàn, bèn định cư ở nơi đây, thường xuyên qua lại, gả cho nam lang nhà bên —— Đổng Thiều Hoa. Cuộc sống tuy rằng nghèo khó, nhưng hòa thuận ân ái. Con trai trưởng, con trai thứ lần lượt sinh ra. Đang nghĩ tới thêm con gái mới viên mãn, lại mang thai.

Dưa chín cuống rụng, như nguyện sinh cô con gái, đặt tên là —— A Nguyệt