Chương 5: Chuyện thứ ba: Vận tốc năm centimet trên giây (1)

Đêm hôm đó, cô nằm mơ.

Giấc mơ về những ngày xa xưa. Khi ấy cô và anh đều còn nhỏ. Một đêm tĩnh lặng, tuyết rơi âm thầm, đồng ruộng mênh mông trắng xóa. Xa xa, ngọn đèn yếu ớt từ mấy căn nhà gỗ không đủ thắp sáng con đường khuya tuyết phủ hằn in dấu chân hai người.

Cây anh đào cổ thụ đứng chơ vơ giữa cánh đồng tuyết. Thân cây lớn, với màu đen đặc quánh hơn cả thứ màu tối của đêm, làm người ta liên tưởng đến một cái hốc sâu hoắm vừa nứt ra trong vũ trụ. Hai người đứng trước cây anh đào cổ thụ, mắt ngắm tơi bời tuyết rơi qua những cành cây khô cong đan nhau trong bóng đêm, lòng miên man suy nghĩ về tương lai của họ.

Đứng cạnh cô là người con trai cô hằng yêu mến, là người đã luôn ở bên tiếp thêm sức mạnh cho cô. Nhưng giờ đây cô đã sẵn sàng đối mặt với thực tế, người con trai đó sắp phải đến một nơi rất xa. Mấy tuần trước, anh viết thư cho cô kể về việc chuyển trường. Cô đã âm thầm nghiền ngẫm, hết lần này đến lần khác, về ý nghĩa của thông báo đó. Nhưng…

Nhưng… Cứ nghĩ đến việc sắp phải chia xa bờ vai mình đang tựa vào, sắp đánh mất hơi ấm dịu dàng toát ra từ anh, cảm giác cô đơn, sợ hãi lại bao vây cô, tưởng đâu đang nhìn xuống một vực sâu không thấy đáy.

Đáng ra, đây là cảm xúc từ thời xa xưa, là điều đã ngủ yên trong quá khứ, nhưng cô vẫn bắt gặp nó trong giấc mơ, với sự vẹn nguyên như mới xảy ra ngày hôm qua và vẫn hiện hữu, ngay ở đây.

Cô thầm ước, giá những bông tuyết hóa thành cánh hoa anh đào, giá bây giờ là mùa xuân. Chúng ta sẽ cùng đi qua mùa đông lạnh lẽo để chào đón mùa xuân ấm áp. Chúng ta sẽ sống chung trong một thành phố, sẽ đi về cùng nhau mỗi ngày để ngắm hoa rơi cho thỏa thích. Giá như bây giờ có thể quay về ngày ấy…

Tối đó, anh đọc sách trong căn phòng nhỏ của mình.

Sắp bước sang thời khắc của ngày mới nhưng anh nằm trằn trọc không ngủ được, đành với tay lấy một cuốn sách, rồi vừa uống bia vừa đọc sách.

Buổi tối lạnh và yên tĩnh. Thay vì bật nhạc, anh mở ti vi. Là một bộ phim Âu Mỹ phát sóng buổi đêm, anh vặn nhỏ âm lượng. Rèm cửa sổ mở hé một cửa nên anh có thể nhìn ra bên ngoài. Tuyết rơi liên miên, màu trắng hòa cùng vô số ánh đèn vẫn thắp sáng trong thành phố. Tuyết bắt đầu rơi từ lúc xế trưa, thỉnh thoảng có mưa, rồi lại tuyết, rồi lại mưa. Nhưng khi trời tối hẳn, tuyết rơi dày và nặng hạt. Lúc này mới thực sự được gọi là “tuyết”.

Thấy mình không thể tập trung đọc sách, anh bèn tắt ti vi. Yên tĩnh tuyệt đối. Chuyến tàu cuối cùng trong ngày cũng đã ngừng chạy nên không còn bất cứ một âm thanh nào xung quanh, kể cả tiếng gió thổi. Thậm chí anh có thể nghe được tiếng tuyết rơi bên ngoài, khi từng bông tuyết chạm vào bức tường tạo nên những âm thanh nhẹ như hơi thở.

Bất chợt, một thứ gì đó ấm áp dịu dàng bị bao kín đã lâu bỗng thình lình sống dậy. Trong lúc lục tìm căn nguyên cho cảm giác kì lạ này, anh sực nhớ đến cây anh đào của một mùa đông xa ngái.

Từ dạo đó, đã bao nhiêu năm trôi qua? Cuối năm lớp Bảy, nghĩa là gần mười lăm năm rồi nhỉ?

Trằn trọc mãi vẫn không ngủ được, anh buông một tiếng thở dài, gấp cuốn sách lại. Uống cạn lon bia đang mở.

Cách đây ba tuần, anh xin nghỉ việc ở công ty anh đã làm được năm năm, hiện tại vẫn chưa tìm được việc mới nên mỗi ngày cứ trôi qua bình lặng như thế. Có thể nói, đây là khoảng thời gian anh thấy tâm hồn thư thái nhất sau bao nhiêu năm tháng chỉ biết cặm cụi với công việc.

Suy cho cùng, tại sao mình phải làm thế?

Anh tự vấn rồi quyết định rời bàn sưởi kotatsu[1], lấy áo khoác (bộ vest đen vẫn treo bên cạnh từ ngày anh nghỉ việc đến giờ), đi ủng, cầm theo chiếc ô bóng kính đi ra ngoài. Từ nhà đến cửa hàng tiện lợi mất khoảng năm phút đi bộ. Anh vừa đi vừa nghe tiếng tuyết rơi lộp bộp khi chạm vào ô.

[1] Bàn sưởi đặc biệt của Nhật Bản, gồm 1 khung bàn gỗ thấp (vuông hoặc chữ nhật), 1 thiết bị sưởi đặt ở giữa khung gỗ này, 1 tấm chăn dày và một mặt bàn dùng để đặt lên chăn và gắn cố định với phần khung gỗ phía dưới. Mùa hè có thể tháo chăn và thiết bị sưởi để thành bàn ngồi bệt bình thường.

Chọn được sữa và rau rồi, anh dừng lại trước quầy tạp chí. Mất vài giây lưỡng lự, anh mới cầm cuốn Nguyệt san Khoa học lên, lật giở từng trang. Đây là cuốn tạp chí anh say mê đọc hồi cấp III nhưng phải mấy năm rồi mới lại cầm nó trên tay. Một loạt bài viết về tình hình băng tan ở Nam Cực, lực hấp dẫn giữa các thiên hà, nguyên tố mới phát hiện, và một bài về tác dụng của hạt nano với môi trường tự nhiên. Anh chỉ xem lướt qua nhưng cũng đủ đánh thức cảm giác ngạc nhiên thích thú của mình trước thế giới bí ẩn luôn đòi hỏi sự khám phá và tâm lí ưa mạo hiểm của con người.

Thật kì lạ, anh ngỡ như mình đã từng trải qua cái cảm giác này ở đâu đó trong quá khứ. Anh hít một hơi thật sâu. Cả giai điệu này, nghe cũng rất quen.

Một bản nhạc cũ – có từ thời anh học cấp II – vang lên trong cửa hàng. Vừa lắng nghe giai điệu thân thương đó, vừa cố nắm bắt những thông tin về thế giới trong cuốn tạp chí khoa học. Bao xúc cảm anh tưởng mình lãng quên từ lâu, một lần nữa sống lại trong anh. Bản nhạc đã hết từ lâu nhưng anh vẫn nghe tim mình bồi hồi, mơn man như những con sóng nhỏ vỗ trong l*иg ngực.

Rời khỏi cửa hàng, lòng anh vẫn bâng khuâng ấm áp. Một cảm giác đã rời bỏ anh từ lâu lắm rồi đang len lén trở lại.

Ngước nhìn bạt ngàn hoa tuyết rơi xuống từ trời đêm, anh thầm nghĩ, cuối cùng, mùa anh đào đã đến.

2

Tốt nghiệp cấp III, Toono Takaki rời Tanegashima trở lại Tokyo học đại học. Để tiện cho việc sinh hoạt và di chuyển, anh thuê một căn hộ nhỏ cách ga Ikebukuro ba mươi phút đi bộ. Anh đã sống ở Tokyo từ năm tám tuổi đến mười ba tuổi, nhưng ngoài những kí ức về việc gia đình anh sống ở quận Setagaya, anh hầu như không nhớ gì về Tokyo. Khác với cư dân ở hòn đảo Tanegashima nhỏ bé anh đã sống suốt những năm tháng trưởng thành, anh thấy người Tokyo thô lỗ, lạnh lùng và thích chửi thề. Họ ngang nhiên hút thuốc trên đường phố, vứt rác bừa bãi nên chỗ nào cũng la liệt phế thải và đầu mẩu thuốc. Anh không thể hiểu được tại sao họ có thể vứt đủ các loại rác ra đường như thế, từ lon rỗng, vỏ cơm hộp đến sách báo, tạp chí. Tokyo trong ký ức của anh sang trọng và ấm áp tình người hơn.

Nhưng cuộc sống là thế.

Dù sao mình cũng đã lựa chọn nơi này để sống, anh nghĩ. Qua vài lần chuyển trường, anh đã học được cách thích nghi nhanh chóng với cuộc sống mới. Mình cũng không còn là một đứa trẻ chỉ biết sống dựa dẫm nữa rồi. Anh nhớ như in cảm giác bất an khi cả nhà chuyển từ Nagano lên Tokyo. Anh khi đó còn là một cậu nhóc, nắm chặt tay ba mẹ và nhìn ra bên ngoài. Khung cảnh cậu nhìn thấy trên chuyến tàu từ Omiya đến Shinjuku khác xa với cảnh núi rừng, đồng quê đã quá đỗi quen thuộc ở Nagano. Mình không thuộc về Tokyo, cậu bé có dự cảm không lành. Nhưng chỉ vài năm sau, cậu gặp lại cảm giác bị chối bỏ khi chuyển trường từ Tokyo về Tanegashima. Phi cơ hạ cánh xuống sân bay trên một hòn đảo nhỏ, chiếc xe của bà lao đi trên đường, xung quanh chỉ có đồng ruộng và những cột đèn trơ trọi làm cậu nhớ Tokyo đến cồn cào.

Rốt cuộc, nơi nào cũng giống nhau. Nhưng ít nhất lần này, Tokyo là do mình lựa chọn. Anh nhìn căn phòng chật chội chất đầy hành lí còn chưa mở, rồi nhìn qua cửa sổ ra những con đường dọc ngang của Tokyo và bần thần suy nghĩ.

Có lẽ chẳng có nhiều điều đáng nói về bốn năm đại học. Tuy bài vở của khoa Vật lí rất nhiều, đòi hỏi anh phải đầu tư phần lớn thời gian, nhưng ngoài lúc bắt buộc phải lên lớp, anh tranh thủ đi làm thêm. Thỉnh thoảng đi xem phim một mình hoặc tản bộ trong thành phố. Có những hôm rời khỏi nhà định đến trường rồi, nhưng nghĩ thế nào anh cúp học, ra công viên gần ga Ikebukuro đọc sách. Ban đầu, sự náo nhiệt ngoài công viên làm anh chóng mặt, nhưng sau thì quen dần. Ở trường hay ở chỗ làm thêm, anh cũng có bạn bè mới, những mối quan hệ mới. Theo thời gian, bạn xã giao vơi dần, nhưng bù lại anh có những người bạn thân thiết, dù số lượng không nhiều. Thỉnh thoảng, hai ba người bạn tụ tập trong căn hộ của ai đó, mua chút rượu nhạt, rồi thức thâu đêm, vừa hút thuốc vừa nói chuyện nhân tình thế thái. Qua bốn năm, có những quan điểm đã phai mờ, thay đổi dần, nhưng cũng có những quan điểm càng thêm bền vững theo thời gian.

Mùa thu năm thứ nhất đại học, anh có người yêu. Hai người quen nhau ở chỗ làm thêm, cô bằng tuổi anh, gia đình sống ở Yokohama.

Lúc đó, công việc của hai người là bán cơm hộp cho căng tin trường trong giờ nghỉ trưa. Anh rất muốn làm thêm bên ngoài nhưng việc học quá bận, nên xin làm ở căng tin trường là phù hợp nhất vì tranh thủ được thời gian nghỉ trưa, công xá cũng tương đối ổn. Cứ 12 giờ 10 phút, hết tiết hai là anh chạy thẳng đến căng tin, chuyển những thùng đựng cơm hộp từ kho đến quầy bán hàng. Kể cả anh là hai người, họ bán hết sạch một trăm hộp cơm trong vòng ba mươi phút. Còn khoảng mười lăm phút mới vào tiết ba nên hai người lui vào một góc, giải quyết nhanh gọn bữa trưa của mình.

Anh làm công việc này được ba tháng, người làm chung với anh lúc đó chính là “cô gái đến từ Yokohama”.

Cô là mối tình đầu của anh. Tính ra anh học được rất nhiều điều từ cô. Những ngày bên cô, anh đã nếm trải đủ mọi hương vị của tình yêu, cả niềm vui và nỗi buồn, cả hạnh phúc và cay đắng. Họ ngủ với nhau, cô cũng chính là người con gái đầu tiên trong cuộc đời anh. Con người có vô vàn trạng thái cảm xúc, nhưng tựu chung lại có hai loại: loại điều khiển được và loại không điều khiển được, trong đó loại không điều khiển được vẫn chiếm đa số. Anh hiểu được rằng, yêu đương và ghen tuông thuộc loại thứ hai.

Mối quan hệ của họ kéo dài được một năm rưỡi. Họ chia tay khi có một người con trai anh không quen tỏ tình với cô.

“Em rất yêu anh, Toono ạ, đến giờ vẫn yêu. Nhưng Toono không yêu em nhiều đến thế. Càng nhận ra em càng đau khổ,” cô nói và khóc trên cánh tay anh.

Không có chuyện đó đâu, anh muốn giải thích như thế. Nhưng anh hiểu, vì anh mà cô phải dằn vặt ưu tư, nên anh không níu kéo. Lần đầu tiên, anh biết khi trái tim đau đớn vì mất đi người mình yêu thì cơ thể mình cũng đau đớn, khổ sở không kém.

Đến giờ, anh vẫn còn nhớ rõ cô gái ấy, bởi hình ảnh họ chóng vánh giải quyết bữa trưa thời còn chưa yêu nhau đã in đậm trong kí ức anh. Quanh đi quẩn lại anh chỉ ăn đồ mua ở cửa hàng tiện lợi, còn cô thường mang theo cơm nhà nấu. Lúc đó, cô mặc nguyên chiếc tạp dề của chỗ làm, ngồi nhai từng hạt cơm, đều đặn và chậm rãi. Phần ăn của cô chỉ bằng một nửa của anh nhưng lúc nào anh cũng là người ăn xong trước. Thấy thế, anh toàn trêu chọc làm cô giận dỗi.

“Toono cũng ăn chậm lại đi. Không thì lãng phí lắm.”

Mãi về sau này, anh mới hiểu khi nói “lãng phí”, cô muốn ám chỉ khoảng thời gian hai người ăn trưa cùng nhau, đáng lẽ có thể kéo dài hơn…

Anh quen cô gái thứ hai, cũng ở chỗ làm thêm. Vào năm thứ ba đại học, anh xin làm thêm ở một lò luyện thi, vị trí trợ giảng. Một tuần bốn lần, cứ học xong, anh lại lao thẳng ra ga Ikebukuro, bắt tàu chuyến Yamanote đến ga Takadanobaba, sau đó chuyển sang tuyến Tousai đến ga Kamirakuzaka. Đó là một cơ sở nhỏ, chỉ gồm một giáo viên Toán, một giáo viên Anh văn và năm trợ giảng tính cả anh. Anh trợ giảng môn Toán.

Giáo viên Toán ngoài ba mươi, ngoại hình trẻ hơn so với tuổi, nhưng vẫn toát ra vẻ cuốn hút của một người đàn ông chín chắn thành đạt, có vợ đẹp con khôn. Về mặt công việc, thầy rất nghiêm khắc nhưng ai cũng nể phục tài năng lẫn phẩm chất của thầy. Trong giờ học, thầy luôn chú trọng đến kiến thức dành cho những em chuẩn bị thi đại học, đồng thời khéo léo l*иg ghép ý nghĩa và sức hấp dẫn vào những con số, tạo niềm đam mê cho các em. Nhờ công việc làm trợ giảng, Toono đã hiểu sâu sắc hơn về môn Giải tích đang học ở trường. Không hiểu sao, thầy dạy Toán này rất quý Toono và thường giao cho anh những công việc liên quan đến nghiệp vụ giảng dạy như quản lí sổ đầu bài, chấm điểm, soạn giáo án, đánh giá xu hướng ra đề thi… Và anh cố gắng hết sức để đáp ứng được kì vọng của thầy. Nhờ đó, thu nhập của anh tương đối ổn định.

Cô gái thứ hai cũng là trợ giảng ở đây, sinh viên trường Waseda. Một cô gái xinh đẹp, có lẽ là đẹp nhất trong những người con gái Toono quen lúc bấy giờ. Mái tóc dài đen óng, mắt to đến ngạc nhiên, không quá cao nhưng dáng người cân đối. Ở cô không hẳn là vẻ đẹp của một thiếu nữ, mà là vẻ đẹp gần gũi với tự nhiên, như nai vàng ngơ ngác tìm bạn, hay chim non tung cánh giữa trời.

Cô nhanh chóng trở thành tâm điểm của mọi ánh nhìn, từ học sinh, giáo viên đến những người làm trợ giảng. Họ đều tìm cơ hội để bắt chuyện với cô nhưng riêng Toono thì khác, ban đầu anh cố tình giữ khoảng cách. Có lẽ bởi cô quá đẹp, một vẻ đẹp phi hiện thực chỉ nên đứng ở xa và ngắm nhìn, chứ không phải để trò chuyện suồng sã. Nhưng có lẽ nhờ quan sát từ xa, anh dần nhận ra có điều khác thường ở cô, một khiếm khuyết nhỏ trong một chỉnh thể hoàn hảo.

Mỗi lần được ai đó bắt chuyện, cô đều đáp lại bằng một nụ cười tươi tắn đầy mê hoặc, nhưng trừ những lúc cần thiết, chẳng mấy khi cô chủ động chuyện trò với ai. Xung quanh đều cho rằng cô là người thân thiện, dễ gần mà không hề nhận ra nét u buồn, cô độc trong con người cô.

Anh lấy làm lạ khi người ta có thể dành cho cô những lời có cánh như “Một người vừa đẹp, vừa không tỏ ra ngạo mạn, luôn hòa đồng với mọi người”. Tất nhiên, anh không có ý định làm người khác thay đổi suy nghĩ của họ về cô, anh cũng không muốn biết tại sao họ lại hiểu nhầm hay giữ thái độ như vậy. Chỉ có điều, nếu cô không thực sự muốn giao tiếp với người khác, thì cô cứ dừng lại, làm theo ý thích của mình. Hãy nghĩ đơn giản rằng thế giới có nhiều loại người, mỗi người đều có bản ngã và tạo nên sự khác biệt riêng. Đừng tự trói buộc mình vào những phiền toái không đáng có.

Nhưng ngày hôm đó, anh buộc phải bắt chuyện với cô. Một đêm tháng Mười hai lạnh giá, đêm trước Giáng sinh. Thầy dạy Toán có việc gấp phải về nhà sớm, chỉ còn lại anh và cô ngồi soạn bài giảng trong văn phòng. Một tiếng sau, anh phát hiện dáng ngồi của cô có gì bất thường. Dù đang rất tập trung vào công việc của mình nhưng như có linh tính kì lạ mách bảo, anh ngẩng đầu lên. Cô gái ngồi đối diện anh, mặt cúi gằm xuống trang giấy, người đang khẽ run lên. Đôi mắt mở to nhìn trừng trừng xuống trang giấy nhưng chắc hẳn tâm trí cô không để ở đó. Mồ hôi rịn ra, ướt đẫm trán. Anh hoảng hốt gọi tên cô nhưng không có câu trả lời, anh bèn đứng dậy, lay nhẹ vào vai cô.

“Sakaguchi, em sao thế? Vẫn ổn chứ?”

“… thuố…”

“Gì cơ?”

“Thuốc. Em phải uống thuốc, lấy nước cho em,” cô thều thào đáp. Anh chạy ra khỏi phòng như một cái máy, đến máy bán đồ uống tự động đặt trong hành lang mua một chai trà. Anh mở sẵn nắp rồi đưa nó cho cô. Tay cô vẫn còn run, rút một vỉ thuốc trong túi, “Lấy giùm em ba viên”. Anh dốc ra ba viên thuốc màu vàng cho cô uống. Đầu ngón tay ấm nóng anh chạm vào bờ môi mềm mại của cô.

Sau đó hai người hẹn hò nhưng mối tình ngắn ngủi, kéo dài đúng ba tháng. Cô đã để lại trong anh vết thương lòng mà anh nghĩ suốt đời không quên được. Và anh chắc hẳn anh cũng để lại một vết thương vừa đau vừa sâu chẳng kém cho cô. Có lẽ anh chưa từng yêu ai và trở nên chán ghét ai chóng vánh như vậy. Họ mất hai tháng để vun vén hạnh phúc, dành trọn yêu thương cho nhau, nhưng một tháng cuối cùng họ chỉ nghĩ cách làm tổn thương nhau. Những ngày đầu hẹn hò, họ say sưa trong tình yêu và hạnh phúc bao nhiêu thì chuỗi ngày sau đó họ gặm nhấm vị đắng và giày vò nhau bấy nhiêu. Họ sẵn sàng ném vào mặt nhau những lời lẽ cay nghiệt và tàn nhẫn nhất.

Nhưng đến bây giờ có một điều anh thấy kì lạ. Rõ ràng đã xảy ra ngần ấy chuyện, nhưng ấn tượng sâu sắc nhất cô để lại trong anh vẫn là cái đêm tháng Mười hai năm ấy, trước khi họ hẹn hò. Bấy giờ, anh nín thở ngắm nhìn gương mặt cô hồng hào trở lại sau khi uống mấy viên thuốc, cảm giác mình đang quan sát một hiện tượng lí thú. Những cánh hoa quý giá, độc nhất vô nhị trên thế giới đang từ từ hé mở trước mắt anh. Anh nhớ lại thuở xưa, mình đã từng chứng kiến những bí ẩn sâu thẳm của thế giới như thế này. Mình sẽ không bao giờ để mất bông hoa ấy lần nữa, anh tự nhủ với lòng. Cho dù hình như cô từng cặp với thầy dạy Toán, cũng không sao hết.

Mãi đến mùa hè năm thứ tư, anh mới bắt đầu đi tìm việc, muộn hơn so với các bạn. Sau khi chia tay cô vào tháng Ba, anh mất thêm chừng ấy thời gian để tìm lại cân bằng cho tâm hồn mình. Mùa thu cùng năm, nhờ sự giới thiệu và chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn, anh được một công ty nhận vào làm. Anh không biết đó có phải là việc mình muốn và mình nên làm hay không nhưng trước hết anh nghĩ mình phải dồn tâm sức vào một việc gì đó. Anh muốn bước sang một thế giới khác hơn là ở lại trường làm công việc nghiên cứu. Với anh việc học đại học là quá đủ, anh không muốn mình bị nhốt mãi trong một chiếc l*иg.

Sau lễ tốt nghiệp, anh trở về phòng thu dọn đồ đạc. Nhận ra ô cửa sổ bếp be bé mở về hướng Đông, tòa nhà Sunshine cao lừng lững một góc trời, nhuộm sắc hoàng hôn. Phía sau đó là một mảng tối bao trùm những căn nhà bằng gỗ cũ kĩ. Cửa sổ hướng Nam, nhìn từ đây thấy mấy tòa chung cư khu Shinjuku chỉ nhỏ như những ô vuông bé xíu. Các cao ốc dễ phải đến hơn hai trăm mét cứ liên tục biến đổi sắc thái tùy từng thời điểm trong ngày hay tình hình thời tiết. Chính những tòa cao ốc ấy sẽ được đón tia nắng đầu tiên của ngày mới như những rặng núi cao là nơi đầu tiên đón mặt trời lên, hay những ngày mưa phùn, cũng những tòa nhà cao sừng sững ấy chìm vào màn mưa như những dải đá ngầm chìm sâu dưới đáy biển. Bốn năm qua, anh đã ngắm nhìn chúng với biết bao cảm xúc, suy tư trong lòng.

Bên ngoài ô cửa, bóng đêm dần buông và hàng triệu ánh đèn dưới lòng đường đang tỏa sáng kiêu hãnh. Anh với tay lấy chiếc gạt tàn đang đặt trên một chiếc thùng các tông và châm thuốc. Sau đó ngồi bệt xuống chiếu, vừa nhẩn nha hút thuốc vừa ngắm nhìn thành phố lên đèn.

Mình sẽ ở lại thành phố này mãi mãi, anh quyết định như thế.

3

Anh làm việc tại một công ty phát triển công nghệ thông tin cỡ trung tại Mitaka. Với tư cách kĩ sư phần mềm, anh được bổ nhiệm vào bộ phận giải pháp thông tin truyền thông. Khách hàng của bộ phận này chủ yếu là những công ty chuyên về viễn thông hay sản xuất thiết bị đầu cuối. Nhóm của anh chịu trách nhiệm phát triển phần mềm cho điện thoại di động.

Từ những ngày đầu tiên, anh đã nhận thấy công việc lập trình hóa ra lại rất phù hợp với anh. Đây là một nghề nghiệp đơn độc, đòi hỏi tính kiên nhẫn và tinh thần tập trung cao độ. Nhưng tất nhiên, thành quả sau đó hoàn toàn xứng đáng với công sức mình bỏ ra. Hễ có code không chạy được như ý muốn thì nguyên nhân chắc chắn là do mình, mình đã sai sót ở khâu nào đó. Và có lẽ trong đời, chưa bao giờ anh hạnh phúc như khi bao tâm huyết, công sức mình bỏ ra được đổi lại bằng hàng trăm thậm chí hàng nghìn code được mã hóa. Công việc lúc nào cũng bận rộn, anh thường về nhà lúc nửa đêm. Mỗi tháng có năm ngày nghỉ nhưng kể cả những ngày đó anh vẫn ngồi hàng giờ trước máy vi tính mà không thấy chán nản hay mệt mỏi. Trong văn phòng sạch sẽ với sắc trắng chủ đạo, anh ngồi thu mình một góc, tách biệt với không gian xung quanh, ngày qua ngày, âm thanh duy nhất lọt vào tai anh là tiếng gõ lách cách trên bàn phím.

Anh không rõ là do tính chất chung của công việc hay tính chất riêng của công ty anh, nhưng mọi người trong công ty gần như không có sự-giao-tiếp-bằng-ngôn-ngữ, ngoài yêu cầu công việc. Ngay cả từng nhóm cũng không có thói quen đi uống với nhau sau giờ làm, buổi trưa thì ai ngồi ở vị trí của người nấy ăn cơm hộp, thậm chí không chào hỏi khi đến hoặc rời công ty. Họp hành cũng hạn chế ở mức tối thiểu, hầu như mọi việc đều trao đổi qua email nội bộ. Âm thanh duy nhất trong văn phòng rộng thênh thang là tiếng gõ bàn phím lách cách. Không gian có sức chứa hàng trăm con người nhưng thiếu vắng cảm giác về sự tồn tại. Ban đầu anh có hơi hụt hẫng, quá khác thời sinh viên, cái thời vô lo, có thể nói những chuyện tầm phào với bất cứ ai, chẳng cần lí do cũng có thể đi uống với nhau. Nhưng ngay sau đó, anh quen với môi trường mới. Vốn dĩ anh cũng là người kiệm lời.

Tan làm, anh ra bắt tàu ở ga Mitaka, trạm dừng gần như cuối của tuyến Chuo, xuống ở ga Shinjuku và đi về căn hộ nhỏ của mình ở Nakanosakue. Hôm nào mệt quá, anh gọi taxi để khỏi phải cuốc bộ ba mươi phút. Từ lúc tốt nghiệp, anh đã dọn đến sống ở đây. Giá thuê nhà khu này đắt hơn khu Mitaka nơi đặt công ty, nhưng anh không muốn sống gần chỗ làm quá, và quan trọng nhất là bởi vì anh muốn được ngắm nhìn những tòa cao ốc phía Tây Shinjuku, nhìn từ xa trông bé xíu nhưng lấp lánh. Chuyển đến đây, anh có cảm giác ở gần chúng hơn so với căn hộ cũ ở Ikebukuro.

Cũng vì thế, khoảng thời gian anh yêu thích nhất trong ngày là khi tàu điện chạy qua ga Ogikubo, những tòa nhà hiện ra phía trước rồi từ từ tiến lại gần anh. Chuyến tàu cuối ngày lúc nào cũng vắng, ghế trống còn rất nhiều, thân thể trong bộ Âu phục thì rã rời sau một ngày làm việc, nhưng trái tim anh mãn nguyện vô cùng. Và nếu chăm chú quan sát dãy cao ốc thấp thoáng đằng sau khu dân cư lúp xúp, sẽ thấy khoảng cách giữa các tòa phối hợp rất nhịp nhàng với chuyển động của con tàu, mỗi nhịp khua lạch xạch, lạch xạch, là ứng với một tòa cao ốc tràn đến. Tokyo về đêm vẫn sáng lạ sáng lùng, các cao ốc nổi lên lừng lững giữa nền trời đen thẫm. Thành phố này hình như không bao giờ ngủ, người làm việc đêm in bóng trên những ô cửa sổ hắt ánh đèn vàng. Đèn hiệu máy bay nhấp nháy đỏ trên không như đang phập phồng hít thở. Mỗi lần được ngắm khung cảnh đó, anh tự nhủ với lòng mình, phải chăng đoàn tàu đang trôi về một nơi nào xa xôi và đẹp đẽ vô cùng. Anh thấy tim mình thổn thức.

Sang ngày mới, anh lại đến công ty, mua cho mình một lon cà phê ở máy bán hàng tự động chỗ lối vào, quẹt thẻ chấm công rồi về bàn ngồi và bật máy tính lên. Trong lúc chờ OS[1] khởi động, anh nhấm nháp cà phê và kiểm tra lại lịch làm việc trong ngày. Sau khi di chuột mở một số chương trình cần thiết, mười đầu ngón tay bắt đầu lướt trên bàn phím. Anh nghiền ngẫm một vài thuật toán, lựa chọn thuật toán thích hợp nhất rồi sử dụng API[2]để lập các câu lệnh. Trỏ chuột, dấu nháy[3] và cả thân thể anh cứ thế phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng. Tư duy của anh lao vun vυ"t từ API của OS, đến các phần mềm lớp giữa, đến thao tác trên phần cứng, đến cả phần cứng của các mạch điện tử chưa hiện hữu trong sản phẩm tương lai.

[1] Operation System: hệ điều hành.

[2] Application Programming Interface: giao diện lập trình ứng dụng. Mỗi hệ điều hành đều có những bộ API khác nhau. Nó cung cấp cho người lập trình các hàm tương tác với cơ sở dữ liệu.

[3] Caret: Dấu nhấp nháy hình thanh đứng trên màn hình máy tính, để chỉ vị trí nhập kí tự.

Càng làm những công việc như lập trình phần mềm thế này, anh càng khâm phục và say mê máy tính. Tuy không hiểu hết về lí thuyết lượng tử – nền tảng của bán dẫn, nhưng do yêu cầu công việc, sau khi tiếp xúc và sử dụng máy tính thành thạo, anh không khỏi tấm tắc trước tính chất phức tạp của công cụ này cũng như tài năng của những người đã phát minh ra nó. Thậm chí anh nghĩ, máy tính gần như là một phép mầu. Thuyết tương đối ra đời để ghi chép về vũ trụ, thuyết lượng tử mô tả sự tinh vi của những hạt nano, và biết đâu một ngày nào đó chuỗi lí thuyết ấy sẽ hợp thành một thuyết đại thống nhất. Anh từng tưởng tượng những điều to tát như thế và mỗi lần chạm tay lên bàn phím, anh có cảm giác mình được chạm vào những bí mật sâu thẳm nhất của thế giới loài người. Không hiểu vì sao nhưng anh mơ hồ nhận ra rằng ẩn giấu sau những bí mật của thế giới, anh được trở về với những giấc mơ, những khát vọng đã đánh mất từ lâu lắm rồi. Là vùng đất anh yêu mến. Là những bản nhạc anh đã nghe sau giờ học. Là lời hứa không thể thực hiện với người con gái đặc biệt nhất đời mình… Anh đắm chìm vào công việc với hi vọng sẽ lấy lại một điều quý giá mình đã mất, dù cơ hội khá mong manh. Anh tiếp tục gõ bàn phím trong im lặng, như một nhạc công cô độc đang đối thoại với cây dương cầm của mình.

Cứ như thế, công việc cuốn anh đi và bao năm trôi qua nhẹ như một cái chớp mắt. Anh nhận thấy đã lâu lắm rồi, có lẽ từ hồi cấp II tới giờ, mình mới gặp lại cảm giác gặt hái mỗi ngày thế này. Hồi ấy, anh tự hào vì cơ thể mình vào đà phát triển, khỏe khoắn và chững chạc lên, thay thế dần vóc dáng gầy gò ốm yếu. Nay, cảm giác tương tự đã trở lại cùng năng lực lập trình ngày một vững chắc. Anh đạt được những thành công nhất định, được cấp trên tín nhiệm, lương bổng cũng tăng dần theo thời gian. Mỗi mùa, anh mua cho mình một bộ vest mới, ngày nghỉ anh ở nhà dọn dẹp nhà cửa hay đọc sách. Lâu lâu có dịp, khoảng nửa năm một lần, lại rủ bạn đi uống. Bạn bè vẫn như xưa, không nhiều lên và cũng không bớt đi.

Mỗi ngày, cứ 8 giờ ra khỏi nhà, 1 giờ đêm mới về. Chuỗi ngày bình lặng và đơn điệu trôi qua như vậy. Trên chuyến tàu đêm, anh vẫn ngắm nhìn những tòa cao ốc phía Tây khu Shinjuku. Dù là mùa nào, thời tiết nào, chúng vẫn đẹp đến ngạt thở. Và hơn thế nữa, cùng với thời gian, cùng với tuổi tác, chúng ngày càng lấp lánh và tỏa sáng.

Đôi khi anh có cảm giác, vẻ đẹp ấy hối thúc mình phải làm gì đấy, nhưng anh không biết nó là điều gì.

“Anh Toono!” Bất chợt có người gọi tên anh trong nhà ga Shinjuku. Đó là một buổi chiều Chủ nhật, với nắng đẹp hiếm hoi lạc vào giữa mùa mưa.

Anh quay lại và thấy một cô gái đeo kính cận, đội mũ rộng vành màu be. Lúc đầu anh không nhận ra là ai nhưng lí trí mách bảo anh đã gặp cô gái ở đâu đó rồi. Mãi đến khi cô giới thiệu tên công ty “Em làm ở Hệ thống…”, anh mới nhớ ra.

“À, có phải bộ phận của anh Yoshimura.”

“Vâng, em là Mizuno. May quá, anh vẫn còn nhớ.”

“Xin lỗi em, tại hôm nọ gặp trong bộ vest đen…”

“À, đúng rồi. Hôm nay em còn đội mũ nữa nhỉ. Nhưng nhìn anh Toono là em nhận ra ngay. Anh mặc bộ đồ này trông giống sinh viên quá.”

Sinh viên ư? Chắc cô ấy không có ý chế nhạo mình đấy chứ? Mải nghĩ, anh không nhận ra họ đã cùng sánh bước lên cầu thang. Chính cô ấy trông mới giống sinh viên chứ. Đôi xăng đan nâu đính cườm lóng lánh để lộ những ngón chân sơn màu hồng nhạt. Tên cô ấy là gì nhỉ? Mizuno à? Tháng trước, khi bàn giao kết quả công việc với khách hàng, anh có gặp Mizuno khoảng hai lần. Cô là cấp dưới phía bên công ty đối tác. Hai người chỉ trao đổi danh thϊếp nhưng tác phong làm việc nghiêm túc và đặc biệt giọng nói trong trẻo của cô để lại những ấn tượng tốt đẹp trong anh.

Đúng rồi, tên cô ấy là Mizuno Risa. Lúc đó mình còn thắc mắc sao dòng chữ in trên danh thϊếp cũng đẹp và chỉn chu như chính con người cô ấy thế.

Hai người cùng bước xuống cầu thang và rẽ phải, anh quay sang hỏi.

“Mizuno cũng về cửa Đông à?”

“À, vâng, cửa nào cũng được.”

“Cửa nào cũng được?”

“À, thực ra thì hôm nay em chưa có kế hoạch gì. Vừa tạnh mưa trời rất đẹp nên định đi mua sắm…”

Cô vừa cười vừa nói. Anh cũng cười theo.

“Thật sao, anh cũng vậy. Nếu không ngại, em có muốn đi uống cà phê với anh không?”

Mizuno hơi giật mình, nhưng vẫn mỉm cười đồng ý.

Hai người vào một quán cà phê nhỏ gần cửa Đông ga Shinjuk. Họ trò chuyện ở đấy khoảng hai tiếng đồng hồ và trao đổi số điện thoại trước khi chia tay.

Khi chỉ còn một mình, anh ghé hiệu sách bên đường. Việc đi lại giữa những giá sách lớn làm anh thấy mệt người và khô cổ. Phải rồi, lâu lắm anh mới được ngồi với ai đó và nói chuyện lâu đến thế. Dù gần như là lần gặp đầu tiên, nhưng hai tiếng trò chuyện với Mizuno là không đủ, họ nói mãi mà không hết chuyện. Có lẽ một phần vì anh vừa hoàn thành một dự án lớn nên tâm lí khá thoải mái. Họ tán gẫu đủ mọi chủ đề, từ chuyện công ty đến chuyện nơi mình đang sống, cuộc sống thời sinh viên… Những câu chuyện đó chẳng có gì đặc biệt nhưng không hiểu sao mấy tiếng đồng hồ ở bên cô đem lại cho anh cảm giác bình yên. Và hình như lâu lắm rồi thì phải, anh mới thấy lòng mình ấm áp thế này.

Một tuần sau đó, anh nhắn tin mời Mizuno đi ăn tối. Anh kết thúc công việc sớm hơn thường lệ, hẹn gặp cô ở ga Kichijoji, sau đó hai người đi ăn và chia tay nhau lúc 10 giờ. Tuần tiếp theo, đến lượt cô mời anh đi ăn. Để đáp lại, anh mời cô đi xem phim vào ngày nghỉ tuần kế tiếp, sau đó cùng đi ăn. Họ cẩn trọng, lịch thiệp, và cứ thế từng chút một, mối quan hệ trở nên khăng khít dần.

Mizuno Risa là mẫu phụ nữ mà càng gặp càng có thiện cảm. Thoạt nhìn, trông cô không có gì nổi bật sau cặp kính với mái tóc đen dài, nhưng ngắm kĩ mới thấy khuôn mặt ấy thanh tú, xinh đẹp đến không ngờ. Cả những bộ trang phục kín đáo và cách nói chuyện kiệm lời khiến người đối diện nghĩ rằng cô sợ người ta biết mình đẹp. Cô kém anh hai tuổi, là một người chân thành và tế nhị. Cô không bao giờ to tiếng, cách nói chuyện từ tốn, rất dễ đi vào lòng người. Mọi áp lực của anh tan biến mỗi lần được ở bên cô.

Căn hộ cô đang sống nằm trên tuyến Chuo, gần ga Nishikokubunji. Họ thường hẹn nhau ở ga nào gần đó, để tiện cho cả hai người. Anh có thể cảm nhận rất rõ tình cảm cô dành cho anh mỗi khi vai cô chạm phải vai anh trên những chuyến tàu chật kín người, qua những hộp cơm được chia đôi hay những lúc hai người đi bộ bên nhau. Họ đều hiểu rằng chỉ cần người kia tiến thêm một bước thì không có lí do gì để khước từ. Chỉ có điều anh không biết khi nào là thời điểm thích hợp để nói ra.

Khi tiễn cô ở ga Kichijoji, cô đi về sân ga đối diện, anh nghĩ.

Từ trước đến nay, mình không mất quá nhiều thời gian để yêu một người. Và cũng rất nhanh, mình để mất người đó. Mình không muốn lặp lại những sai lầm như thế nữa.

Người ta đã phóng thành công tên lửa H2A.

Anh nghe tin này khi nằm xem ti vi trong phòng. Dạo ấy là cuối hạ, vào một đêm mưa.

Trời oi bức nên anh đóng tất cả cửa sổ và bật điều hòa. Tiếng mưa gõ trên mặt đường và tiếng xe chạy qua vũng nước ẩm ướt bằng một cách nào đó vẫn lọt vào căn phòng nhỏ của anh. Màn hình ti vi đang phát đi hình ảnh chiếc H2A bay vυ"t lên bầu trời để lại những cột khói trắng khổng lồ phía sau. Nó được phóng đi từ trung tâm vũ trụ trên đảo Tanegashima, một nơi đã từng gắn bó với anh trong nhiều năm. Màn hình quay cận cảnh chiếc H2A xuyên thủng những tầng mây, sau đó là các hình ảnh ghi lại từ chiếc camera phụ gắn trên thân tên lửa. Toàn cảnh Tanegashima bé xíu hiện ra giữa những khoảng mây vừa bị xé toạc. Một bên là thị trấn Tanegashima, một bên là đường bờ biển kéo dài tưởng đến vô tận.

Bất giác, một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng.

Khi những hình này hiện ra trước mắt, anh không biết chính xác cảm xúc đang có hiện giờ. Tanegashima không còn là nhà anh nữa, vì từ nhiều năm trước ba mẹ đã chuyển đến Nagano và có lẽ họ sẽ sống luôn ở đó đến suốt đời. Hòn đảo nhỏ bé này chỉ còn lại trong kí ức, với dấu ấn là một nơi anh từng sống trước kia. Lon bia mở ra đã tan hết khi lạnh, anh uống một ngụm để thứ chất lỏng đắng chát ấy trôi qua cuống họng và đi xuống dạ dày, làm anh tỉnh táo hơn. Cô phát thanh viên trẻ đẹp giới thiệu vệ tinh vừa phóng lên là vệ tinh thông tin nhằm phát triển dịch vụ MS (điện thoại nhà ga), giọng đọc của cô đều đều, vô cảm như một cái máy.

Vai trò của vệ tinh kia khiến nó tạo nên chút liên hệ với công việc anh đang làm. Nhưng dù là mối liên hệ gì đi chăng nữa, anh có cảm giác mình vừa bị đày ải đến một miền đất xa xôi nào đó.

Lần đầu anh được ngắm tên lửa phóng lên là vào năm mười bảy tuổi. Bên cạnh anh lúc đó là một cô gái mặc đồng phục cấp III. Tuy học khác lớp nhưng hai người khá thân thiết. Đúng hơn, cô gái đã tìm cách tiếp cận anh. Cô tên Sumida Kanae, vì chơi lướt ván nhiều nên da ngăm ngăm, nhưng trông cô luôn dễ thương và tươi tắn.

Thời gian mười năm dài đã giúp anh lấy lại cân bằng trong cảm xúc, nhưng cứ nghĩ đến Sumida, anh lại có cảm giác đau nhói nơi l*иg ngực. Tấm lưng mảnh mai của cô, mùi mồ hôi, giọng nói, tiếng cười và cả khuôn mặt đẫm nước mắt… tất cả những hình ảnh về cô luôn gợi nhắc trong anh hòn đảo Tanegashima, nơi anh đã sống suốt những năm tháng của tuổi trưởng thành. Màu sắc, âm thanh, và hương vị của hòn đảo ấy vẫn hiện lên tươi mới, nhưng đã pha lẫn dư vị của nuối tiếc. Anh hiểu hơn ai hết rằng nếu được làm lại, anh cũng sẽ hành động như trước đây, không thể khác được. Lí do khiến Sumida thích anh, bao lần cô định tỏ tình là bấy nhiêu lần anh tìm cách để cô không có cơ hội nói ra, cả cái khoảnh khắc hai người ngắm nhìn tên lửa phóng lên và quyết định buông xuôi của cô sau đó… Anh đều hiểu hết, nhưng cảm thấy mình không thể làm gì cho cô được.

Cái ngày lên Tokyo học đại học, anh chỉ nói giờ bay cho mình cô biết. Đó là một ngày tháng Ba đầy nắng và gió. Sân bay nhỏ bằng bến tàu thủy, hai người nói chuyện với nhau lần cuối ở bãi đỗ xe. Câu chuyện vô cùng rời rạc vì Sumida cứ khóc suốt, nhưng khi chia tay, cô đã mỉm cười. Nghĩ lại, anh mới thấy Sumida hồi đó người lớn và mạnh mẽ hơn mình rất nhiều. Anh thậm chí không nhớ mình có đủ tự tin để mỉm cười và đối mặt với cô ấy không.

2 giờ 20 phút. Đêm.

Phải ngủ thôi để sáng mai còn dậy sớm đi làm. Bản tin thời sự đã hết và ti vi chuyển sang chương trình quảng cáo tự lúc nào.

Anh tắt ti vi, đánh răng, hẹn giờ điều hòa, rồi tắt điện và lên giường như một con rô bốt. Chiếc điện thoại đang sạc đầu giường nhấp nháy đèn, báo hiệu tin nhắn tới. Anh mở điện thoại, ánh sáng dịu nhẹ trên màn hình lan tỏa khắp căn phòng. Là lời mời ăn tối của Mizuno. Anh xoay người sang bên và nhắm mắt lại. Đọc truyện tại truyenhdt.com

Đủ mọi hình khối bắt đầu hiện ra sau mi mắt. Thần kinh thị giác cảm nhận được ánh sáng chính là nhờ sức ép của mi mắt trên nhãn cầu, mà mi mắt lúc nào chẳng gây sức ép lên nhãn cầu, dù nhiều hay ít, nên con người không bao giờ biết đến bóng tối thực sự. Ai đã nói với anh điều này nhỉ?

Phải rồi, anh nhớ ra mình từng có thói quen soạn tin nhắn điện thoại nhưng không gửi đi. Đó là những tin nhắn anh muốn gửi đến một người con gái, nhưng anh không biết địa chỉ email của cô. Không biết từ lúc nào anh đã mất liên lạc hoàn toàn với cô. Anh cũng không còn viết thư tay cho cô nhưng những lúc cảm xúc dâng trào, anh lại bấm tin, muốn gửi đến cô. Sau đó anh không gửi mà xóa chúng đi. Đối với anh, nó như một quá trình chuẩn bị, một bước đệm để anh có thể một mình bước ra thế giới.

Dần dần, những tin nhắn không còn địa chỉ người gửi như một lời độc thoại với chính bản thân mình. Cuối cùng, anh bỏ hẳn thói quen soạn tin nhắn. Đó cũng là lúc anh nhận ra, giai đoạn chuẩn bị đã kết thúc. Anh nghĩ.

Anh không còn gửi thư cho cô nữa.

Anh cũng không nhận được lá thư nào của cô.

Anh còn nhớ rất rõ nỗi bồn chồn tê tái hồi ấy, đến giờ anh vẫn cảm nhận được nó, phải chăng anh chưa hề thay đổi gì so với trước đây? Một gã trai khờ khạo, ngu ngốc đến tàn nhẫn. Không được, anh mở to hai mắt và nghĩ. Ít ra, giờ đây mình đã biết ai là người quan trọng với mình.

Có lẽ mình đã yêu Mizuno rồi.

Lần tới gặp nhau, mình sẽ thổ lộ với cô ấy. Anh quyết định thế và gửi tin nhắn trả lời. Lần này, anh sẽ đối diện với những cảm xúc chân thành nhất của mình, giống như Sumida đã làm với anh trong ngày chia tay.

Ngày hôm đó, ở sân bay.

Cả hai trông lạ lẫm trong bộ đồ thường ngày. Lá phượng, dây điện trên cao và cả tóc Sumida tung bay trong gió. Nụ cười của cô thấm đẫm nước mắt. Cô nhìn thẳng vào anh và nói.

“Tớ sẽ yêu cậu mãi mãi, Toono. Cảm ơn cậu rất nhiều!”